điểm duy vật biên chứng còn thừa nhận tính đa dạng của sự liên hệ: có mối liên
hệ bên ngoài, mối liên hệ bên trong; có mối liên hệ thứ yếu và mối liên hệ chủ
yếu Các loại liên hệ khác nhau có vai trò khác nhau đối với sự vận động vầ
phát triển của các sự vật hiện tợng. Trong đó, mối liên hệ bên trong giữ vai trò
quyết định đối với sự tồn tại, vân động, phảttiển của sự vật. Mối kiên hệ bên
ngoài, nói chung, không có ý nghĩa quyết định và thờng phải thông qua mối liên
hệ bên trong mà phát huy tác dụng.Nh vậy, quan điểm duy vật biện chứng về sự
liên hệ đòi hỏi phải thừa nhận tính tơng đối trong sự phân loại các mối liên hệ.
Các mối liên hệ khác nhau có thể chuyển hoá lẫn nhau. Trong tính đa dạng của
hình thức và các loại liên hệ tồn tại trong tự nhiên, trong xã hội và t duy con ng-
ời, phép biện chứng duy vật tập trung nghiên cứu những loại liên hệ chung mang
tính phổ biến.
2.3 Yêu cầu của nguyên lý phổ biến:
2.3.1 Quan điểm toàn diện: Với t cách là một nguyên tắc phơng
pháp luận trong việc nhận thức các sự vật hiện tợng, quan điểm toàn diện đòi hỏi
chúng ta phải xem xét nó:
+ Trong mối liên hệ qua lại giữa các bộ phận, giữa các yếu tố, các
thuộc tính khác nhau của chính sự vật đó.
+ Trong mối liên hệ qua lại giữa sự vật đó với các sự vật khác (kể
cả trực tiếp và gián tiếp).
Hơn thế nữa, quan điểm toàn diện còn đòi hỏi để nhận thức đợc sự
vật hiện tợng chúng ta cần xem xét nó trong mối liên hệ với nhu cầu thực tiễn
của con ngời. Quan điểm toàn diện đối lập với quan điểm phiến diện không chỉ
ở chỗ nó chú ý tới nhiều mặt, nhiều mối kiên hệ. Việc chú ý tới nhiều mặt, nhiều
mối liên hệ của sự vật vẫn có thể là phiến diện, nếu chúng ta đánh giá ngang
nhau những thuộc tính, những tính quy định khác nhau của sự vật đợc thẻ hiện
trong những mối liên hệ khác nhau đó. Quan điểm toàn diện chân thực đòi hỏi
chúng ta phải đi từ tri thức về nhiều mặt, nhiều mối liên hệ của sự vật đến chỗ
5
khái quát đẻ rút ra cái bản chất chi phối sự tồn tại và phát triển của sự vật hay
hiện tợng đó. Quan điểm toàn diện khác với chủ nghĩa chiết trung và thuật nguỵ
biện. Chủ nghĩa chiết trung tuy cũng tỏ ra chú ý tới nhiều mặt khác nhau thế nh-
ng lại kết hợp vô nguyên tắc các mối liên hệ khác nhau của sự vật. Chính vì vậy
hoàn toàn bất lực khi phải đa ra một quyết sách đúng. Còn thuật nguỵ biện cũng
để ý tới những mặt khác nhau của sự vật, nhng lại đa cái không cơ bản thành cái
cơ bản, cái không bản chất thành cái bản chất. Cả hai đều đa đến nhứng kết luận
sai lầm.
2.3.2 Quan điểm lịch sử cụ thể:
Mọi sự vật hiện tợng đều tồn tại trong thời gian, không gian nhất
định và mang dấu ấn của thời gian, không gian đó. Việc vận dụng quan điểm đó
đòi hỏi phải chú ý đúng mức tới hoàn cảnh lịch sử cụ thể đã làm phải tính vấn
đề, tới sự ra đời và phát triển của nó, tới bối cảnh hiện thực cả khách quan và
chủ quan quy định những giải pháp, những phợng tiện để giải quyết vấn đế
nảy sinh.
3. Vậy tại sao khi nghiên cứu vấn đề này chúng ta phải dùng mối liên
hệ phổ biến:
Toàn cầu hoá và việc xây dựng một nền kinh tế độc lập tự chủ vững mạnh
là hai việc nhìn bề ngoài là hai việc tách biệt. Thế nhng, chúng lại là hai vấn đề
liên quan mật thiết với nhau. Chính vì vậy, muốn hiểu đợc chúng liên quan với
nhau nh thế nào thì chúng ta phải đi sâu vào nghiên cứu. Trong khi nghiên cứu
chúng ta không thể chỉ nhìn từ một phía mà cần có cái nhìn toàn diện. Nh trong
mối liên hệ phổ biến đã khẳng định, chúng ta phải nhìn vào cái bản chất nhất
của sự vật. Mà giữa Toàn cầu hoá và việc xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ lại
có mối liên hệ bản chất, cái này thúc đẩy giúp cái kia trở nên vững mạnh hơn.
Nếu chúng ta không dùng mối liên hệ phổ biến để xem xét sẽ dễ dẫn đến chỉ
nhìn thấy sự liên quan bên ngoài một cách sơ xài.
6
Ch ơng III: Toàn cầu hoá
1. Toàn cầu hoá kinh tế là gì? Những đặc điểm của toàn cầu hoá kinh
tế:
Con ngời là một loài sinh vật đặc biệt, chúng ta có trí thông minh và có
trình độ tổ chức xã hội cao. Con ngời sống với nhau dựa trên rất nhiều mối quan
hệ, trong đó quan hệ về kinh tế là chủ yếu. Có một số nhà nghiên cứu cho rằng
toàn cầu hoá đã có từ rất lâu và trớc đây chính là quá trình quốc tế hoá. Vậy
trong tình hình hiện nay Toàn cầu hoá là những mối quan hệ kinh tế vợt qua
biên giới quốc gia, với quy mô toàn thế giới, đạt trình độ và chất lợng cao hơn
các quá trình quốc tế hoá trớc kia. Toàn cầu hoá kinh tế có một số đặc điểm sau
khác với các quá trình quốc tế hoá trớc kia:
a) Sau khi Liên Xô và các nớc Đông Âu sụp đổ thì Mỹ là một siêu cờng
lớn nhất thế giới. Tuy nhiên, trong tình hình hiện nay, Mỹ đang có chiều hớng
chững lại và các nớc phát triển khác đang vơn lên, điều đó tạo nên một thế giới
có nên kinh tế không còn một cực nh trớc kia mà là đa cực.
b) Kinh tế thị trờng nhiều kiểu, nhiều mức độ khác nhau đang lan tràn
khắp thế giới, kéo theo nó là sự tăng cờng tự do hoá kinh tế và xu hớng vừa hợp
tác vừa cạnh tranh.
c) Cách mạng khoa học kĩ thuật làm cho con ngời có khả năng thực hiện
rất nhiều việc mà trớc đây không thể. Chính điều này đã thúc đẩy sự toàn cầu
hoá một cách nhanh chóng.
d) Các mối quan hệ của toàn cầu hoá ngày càng toàn diện chứ không
phải chỉ dừng lại ở thơng mại xuất nhập khẩu.
e) Toàn cầu hoá đợc thúc đẩy bởi một số nhân tố sau:
+ Đó là các công ty cực lớn, vừa, nhỏ tới từng cá thể tích cực tham
gia vào quá trình toàn cầu hoá. Trong hàng triệu, hàng nghìn công ty trên, có vai
trò lớn nhất nằm trong tay khoảng chừng 50.000 công ty xuyên quốc gia
+ Đó là do sự thúc đẩy tích cực của các chính phủ.
7
+ Đó là do sự tác động của các tổ chức phi chính phủ, họ đang
thành lập ngày càng đông đảo, đa dạng và hoạt động ngày càng có hiệu quả
trong quá trình toàn cầu hoá.
+ Đó là các tổ chức kinh tế, tài chính, thơng mại khu vực.
+ Đó là các tổ chức kinh tế, tài chính, thơng mại quốc tế nh WTO,
IMF
f) Toàn cầu hoá phải đi đôi với hội nhập khu vực và các quan hệ song
phơng
g) Toàn cầu hoá, theo các nhà nghiên cứu thì đây là một quá trình mở
đang còn vân động và sẽ còn trải qua nhiều giai đoạn.
2.Bản chất của toàn cầu hoá:
Hiện nay, nói đến vấn đề này trên thế giới đang có hai thái cực tranh cãi
nhau rất gay gắt:
+ Quan điểm thứ nhất cho rằng: toàn cầu hoá là một điều tất yếu phải xảy
ra. Mọi quốc gia không thể tránh khỏi, chính sách hợp lý nhất mà các quốc gia
phải theo là tham gia và làm theo các quy tắc của cuộc chơi. Tuy nhiên quan
điểm này lại biến con ngời thành kẻ bị lệ thuộc vào chính sản phẩm mà họ tạo
ra.
+ Quan điểm thứ hai cho rằng: toàn cầu hoá là một bớc trong kế hoạch
làm bá chủ thế giới của Mỹ. Tuy nhiên, quan điểm này thì ngời ta lại quá đè cao
sức mạnh của Mỹ, mà trên thực tế không phải vậy.
Vậy đúng ra bản chất của toàn cầu hoá kinh tế là gì? Toàn cầu hoá kinh tế
là một xu hớng lớn của thời đại, nhng dù nó khách quan đến mấy cũng do con
ngời tạo ra. Nó là kết quả của sự kết hợp giữa nhiều yếu tố, mà các yếu tố ấy đều
do con ngời tạo ra. Trong đó có 3 yếu tố chính:
- Cuộc cách mạng khoa học kĩ thuật.
- Nền kinh tế thị trờng hiện đại.
8
- Chính sách rất có tính toán của Mỹ và các nớc cờng quốc khác mà
không phải chỉ riêng Mỹ.
+ Một bản chất nữa của toàn cầu hoá là tính bất đối xứng của nó. Điều đó
đợc thể hiện nh sau:
-Toàn cầu hoá phân phối thành quả rất bất công. Ngời giàu, nớc
giàu ngày càng đợc nhiều lợi, nớc nghèo, ngời nghèo bị thiệt. Dần dần một
mảng lớn dân c trên thế giới bị loại khỏi quá trình toàn cầu hoá.
-Toàn cầu hoá hiện nay, không hài hoà, không đồng bộ, các lĩnh
vực so le, chênh lệch nhiều, cả về chiều sâu lẫn chiều rộng. Đặc biệt là: thứ nhất,
toàn cầu hoá kinh tế không đi đôi với sự quan tâm đúng mức về xã hội và con
ngời. Điều này khiến cho phần thua thiệt về xã hội và con ngời rất nặng nề. Thứ
hai, toàn cầu hoá không đi đôi với một cơ cấu và cơ chế quản lý toàn cầu tơng
xứng. Điều này dẫn đến toàn bộ thế giới nh một con tàu không ngời lái.
+ Toàn cầu hoá hiện nay bỏ qua các vấn đề khác, nó chỉ chú trọng tới thị
trờng, xem nhẹ nhà nớc và nhất là xã hội.
3. Toàn cầu hoá những cơ hội và thách thức
(a) Những cơ hội:
+ Thứ nhất, sự phát triển của toàn cầu hoá kinh tế phá bỏ những cản
trở, những hàng rào ngăn cách giữa các quốc gia. Nó mở ra những điều kiện
thuận lợi cho sự phát triển về quan hệ kinh tế thế giới. Từ đó, các quốc gia có
thế lợi dụng để mở rộng thị trờng ra bên ngoài quốc gia mình.
+ Thứ hai, toàn cầu hoá phát triển giúp các nớc chậm phát triển sớm
tham gia vào hệ thống phân công lao động quốc tế. Điều này, giúp các nớc chậm
phát triển hình thành một cơ cấu kinh tế xã hội hiệu quả, đẩy nhanh, rút ngắn
tiến trình hiện đại hoá nền kinh tế.
+ Thứ ba, toàn cầu hoá phát triển tạo điều kiện cho các nớc tiếp cận
với những nguồn vốn và công nghệ kĩ thuật cao cũng nh học tập công nghệ quản
lý.
9
+ Thứ t, toàn cầu hoá phát triển làm cho các nớc liên hiệp với nhau
thành những khu vực tự do thơng mại. Điều này giúp dỡ bỏ hàng rào thuế quan
đối với các nớc thành viên, dẫn đến hàng hoá có thể nhanh chóng tiếp cần với
thị trờng thế giới. Hơn nữa, với các nớc đang phát triển thì việc hội nhập vào các
tổ chức kinh tế thế giới cũng chính là tham gia vào các diễn đàn kinh tế thế giới
cho phép mình quyền bình đẳng bày tỏ quan điểm, bảo vệ lợi ích của mình.
+ Thứ năm, toàn cầu hoá thực chất là quá trình mở cửa hội nhập của
các quốc gia. Tuy nhiên, không chỉ hội nhập riêng về kinh tế mà còn về nhiều
vấn đề khác nữa. Điều ấy giúp cho các quốc gia nhanh chóng tiếp cận đợc các
thông tin, tri thức khoa học mới nhất. Nó góp phần nâng cao trình độ dân trí,
tạo cơ sở cho nền tảng cho dân chủ phát triển.
+ Thứ sáu, toàn cầu hoá mở ra khả năng phối hợp nguồn lực của các
quốc gia trên thế giới để giải quyết các vấn đề có tính toàn cầu nh: môi tr-
ờng,dân số, chiến tranh và hoà bình
(b) Những thách thức của toàn cầu hoá:
+ Thứ nhất, do tính bất đối xứng của toàn cầu hoá, nó phân chia thành
quả rất bất công. Chính vì thế, toàn cầu hoá không phân chia công bằng các cơ
hội và lợi ích giữa các khu vực, quốc gia và trong môi quốc gia và từng nhóm
dân c. Trên thực tế, trong toàn cầu hoá thì các nớc phát triển và những ngời giàu
có là đợc lợi nhiều nhất. Vì vậy, toàn cầu hoá làm tăng thêm tình trạng bất công
và gia tăng khoảng cách giàu nghèo.
+ Thứ hai, việc mở cửa hội nhập một mặt làm cho các nớc chậm phát
triển tiếp xúc với các nền kỹ thuật tiên tiến hiện đại làm tăng năng xuất, thế nh-
ng các doanh nghiệp trong nớc phải cạnh tranh gay gắt với dòng sản phẩm công
nghệ cao và các nguồn lực mạnh dễ dàng lấn át. Chính vì vậy, nó dẫn đến tình
trạng phá sản, thất nghiệp, làm trầm trọng thêm các vấn đề xã hội vốn đã rất nan
giải ở các nớc chậm phát triển.
10
+ Thứ ba, toàn cầu hoá mở ra cho các nớc cơ hội tranh thủ nguồn vốn
bên ngoài. Song chính điều ấy sẽ làm các nớc phụ thuộc vào hệ thống phân công
lao động quốc tế. Nếu nh không xác định đợc một đờng lối phát triển nội lực là
chính thì các nớc rất dễ bị phụ thuộc và mất quyền tự chủ.
+ Thứ t, toàn cầu hoá cho phép vận dụng nguồn vốn bên ngoài nhằm
rút ngắn quá trình phát triển. Tuy nhiên trong đó cũng ẩn chứa nhiều nguy hiểm
không vững chắc.
+ Thứ năm, toàn cầu hoá còn đặt ra nhng hậu quả phi kinh tế. Đó là
vấn đề lan toả các dịch bệnh, đặc biệt là HIV/AIDS. Ngoài ra, các luồng văn hoá
ngoại lai tác động không nhỏ tới thuần phong mỹ tục làm bại hoại đạo đức con
ngời. Chính vì vậy, xu hớng toàn cầu hoá đã nổi lên xu hớng dân tộc, bảo vệ bản
sắc dân tộc.
Ch ơng IV: Xây dựng một nền kinh tế độc lập tự chủ vững mạnh
1. Nền kinh tế nh thế nào đ ợc gọi là một nền kinh tế độc lập tự chủ:
Thực ra, khái niệm nền kinh tế độc lập tự chủ đã không ít lần đợc nhắc
tới. Tuy nhiên, quan niệm về nền kinh tế độc lập tự chủ trớc đây và hiện nay có
những nét khác nhau. Vậy thế nào là nền kinh tế độc lập tự chủ?:
+ Nền kinh tế độc lập tự chủ là nền kinh tế không bị lệ thuộc, phụ thuộc
vào nớc khác, hoặc một tổ chức kinh tế nào đó về đờng lối, chính sách phát
triển, không bị bất cứ ai dùng những điều kiện kinh tế, tài chính, thơng mại, viện
trợ để áp đặt, khống chế, làm tổn hại chủ quyền quốc gia và lợi ích cơ bản của
dân tộc.
+ Nền kinh tế độc lập tự chủ là nền kinh tế trớc những biến động của thị
trờng, trớc sự khủng hoảng kinh tế tài chính ở bên ngoài, nó vẫn có khả năng cơ
bản duy trì sự ổn định và phát triển; trớc sự bao vây, cô lập và chống phá của các
thế lực thù địch, nó vẫn có khả năng đứng vững, không bị sụp đổ, không bị rối
loạn.
11
+ Tuy nhiên, trong thời đại hiện nay, nói tới độc lập tự chủ về kinh tế
không ai hiểu đó là nền kinh tế khép kín, tự cung tự cấp, mà đặt trong mối liên
hệ biện chứng với mở cửa, hội nhập, chủ động tham gia sự giao lu, hợp tác và
cạnh tranh quốc tế trên cơ sở phát huy tốt nhất nội lực và lợi thế so sánh quốc
gia, từng bớc xây dựng một cơ cấu sản xuấtđáp ứng đợc cơ bản nhu cầu thiết
yếu về đời sống của nhân dân và có khả năng trang bị lại ở mức cần thiết cho
nhu cầu phát triển kinh tế , củng cố quốc phòng an ninh.
2. Vì sao chúng ta phải xây dựng một nền kinh tế độc lập tự chủ
vững mạnh:
Theo nh trên ta đã thấy một nền kinh tế độc lập tự chủ là nh thế nào. Vậy
tại sao trong khi hội nhập kinh tế thế giới chúng ta phải xây dựng một nền kinh
tế độc lập nh vậy? Có ý kiến cho rằng, trong điều kiện Toàn cầu hoá nền kinh
tế, mở cửa hội nhập mà lại đặt vấn đề xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ là
thiếu nhạy bén, không thức thời, thạm chí là bảo thủ, t duy kiểu cũ. Thế giới bây
giờ là một thị trờng thống nhất, cần thứ gì thì mua, thiếu tiền htì đi vay, sao lại
chủ trơng xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ? Nói nh vậy khi nghe có vẻ có lí,
nhng nếu đi sâu vào thực tế thì thấy hoàn toàn thiếu cơ sở, vì nó quá đơn giản
và phiến diện. Thực tiễn cho thấy nếu không có một nền kinh tế độc lập tự chủ
sẽ không những không thể có sự độc lập về chính trị, không thể bảo đảm đợc lợi
ích cơ bản của dân tộc cũng nh chủ quyền quốc gia mà bản thân việc mở cửa,
hội nhập kinh tế quốc tế cũng không đạt đợc kết quả nh mong muốn. Sự cần
thiết phải xây dựng một nền kinh tế độc lập tự chủ cùng với việc đẩy mạnh quá
trình chủ động hội nhập kinh tế xuất phát từ một số luận điểm sau đây:
+ Tất cả các nớc tham gia hội nhập kinh tế đều xuất phát từ mục tiêu bên
trong, phục vụ cho yêu cầu, nhiệm vụ trong nớc. Toàn cầu hoá, tự do hoá làm
cho các nền kinh tế phụ thuộc, đan xen vào nhau. Tuy nhiên sự ràng buộc về lợi
ích đó không có sự ràng buộc thuần tuý, vô điều kiện mà chính là vì phải chia sẻ
lợi ích một cách hợp lí, nhằm mục đích cuối cùng là thu đợc nhiều hơn lợi ích
12
cho đất nớc mình, dân tộc mình, giữ đợc tính độc lập của nền kinh tế qua mối
quan hệ ràng buộc, phụ thuộc lẫn nhau, một sự ràng buộc đa phơng về lợi ích.
Tất cả các nớc tham gia vào quá trình tự do hoá thơng mại đều trớc hết vì lợi ích
của mình, tuyệt nhiên không vì lợi ích của nớc khác. Thế nhng, những lợi ích ấy
có đợc hay không còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố, trong đó cơ bản nhất là nội
lực của nền kinh tế nớc đó. Nớc nào mạnh thì thu đợc nhiều lợi hơn. Toàn cầu
hóa, thơng mại hoá, vừa tạo ra sự hợp tác, phụ thuộc lẫn nhau, đồng thời cũng
tạo nên sự cạnh tranh rất khốc liệt và rất không cân sức giữa các nền kinh tế. Sự
cạnh tranh ấy khốc liệt đến nỗi có thể tạo nguy cơ gây mất ổn định về kinh tế và
chính trị. Thậm chí còn có thể xảy ra xung đột giữa các nớc với nhau. Chính vì
lẽ đó, các nớc không thể đứng nhìn toàn cầu hoá tác động tới mình, mà họ phải
chủ động tham gia, đa ra các quyết sách nhằm hội nhập xu hớng của thế giới,
đồng thời làm sao thu lợi nhiều nhất mà vừa bảo vệ đợc nền kinh tế của mình.
Trên thực tế đã có rất nhiều nớc tham gia vào quá trình hội nhập kinh tế quốc tế,
tham gia vào các tổ chức kinh tế, tài chính, thơng mại thế giới từ lâu nhng vẫn
trong tình trạng trì trệ, thậm chí mức độ bị phụ thuộc, mất tự do lại còn tăng
hơn. Nh vậy đủ thấy là mỗi nớc sẽ không thể thực hiện đợc những mục đích đã
định ra nếu không có ọt nền kinh tế của chính mình và đủ mạnh.
+ Chúng ta cần một nền kinh tế độc lập vững mạnh vì sự phát triển vững
chắc và đảm bảo tính an toàn. Trong quá trình toàn cầu hoá hiện nay ẩn chứa rất
nhiều những yếu tố bất ổn, bất lờng, bất công mà mức độ cũng nh khả năng
phòng tránh, khắc phục nó lại tuỳ thuộc rất nhiều ở trình độ phát triển của các
nền kinh tế. Ai cũng rõ, toàn cầu hoá làm lây lan nhanh chóng những cuộc
khủng hoảng kinh tế, tài chính, tiền tệ làm trầm trọng thêm những vấn đề mang
tính toàn cầu mà thế giới cha tìm đợc lối thoát. Điều đó cũng có nghĩa là các nền
kinh tế trở nên dễ biến động, bất ổn định hơn trớc. Ví dụ: Trong những năm
1997 1998, Châu á gặp phải một cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ trầm
trọng. Tuy nhiên, các nớc này nhanh chóng phục hồi là nhờ lúc đó nền kinh tế
13
Mỹ đang tăng trởng khá. Hiện nay, từ sau ngày 11 9, nền kinh tế Mỹ đang
ngập trong khó khăn thì ngời ta dự đoán rằng nền kinh tế ở một số nớc Châu á
khó bề vơn dậy đợc. Lý do, họ dựa quá nhiều và xuất khẩu mà không tranh thủ
thời cơ để tiến hành cải cách cần thiết trong nớc. Rồi đến Châu Phi đang phải
gánh chịu một bài học đắt giá về việc chỉ biết sống dựa vào bên ngoài, phụ
thuộc hẳn vào bên ngoài thì nền kinh tế trong nớc sẽ không bao giờ cất mình lên
nổi.
+Hiện nay tiêu chí sản phẩm hàng hoá cùng với các thiết chế, luật kinh
tế đang trở thành luật chơi trong sân chơi toàn cầu. Muốn tham gia vào sân chơi
này thì mỗi nớc phải tự khẳng định mình, tìm cho mình một vị trí đứng. Muốn
vậy điều quan trong bậc nhất là tạo ra thật nhiều sản phẩm mà ai cũng thấy cần
và đợc chấp nhận. Nh vậy, nớc nào muốn thu đợc nhiều lợi nhuận thì phải nắm
công cụ quan trọng là khoa học công nghệ hiện đại. Để thực hiện việc chuyển
giao công nghệ, mỗi nớc phải đạt tới một trình độ nhất định mới tiếp thu đợc
công nghệ hiện đại. Thế nhng một vấn đề quan trọng hơn, là phải phá vỡ bức rào
cản do các công ty xuyên quốc gia đặt ra về tình trạng độc quyền các công nghệ
hiện đại. Trong nhiều trờng hợp, dựa vào u thế công nghệ hiện đại, họ tự cho
mình quyền chi phối các tổ chức kinh tế, tài chính quốc tế, quyền đa lợi ích kinh
tế đi kèm với các điều kiện chính trị, áp đặt t tởng. Thậm chí, một số nớc phát
triển còn đa ra quyền trừng phạt các nớc dới nhiều hình thức. Vì vậy, để khắc
phục đến mức thấp nhất tình trạng bị rơi vào thế lệ thuộc, tất cả các nền kinh tế
bằng mọi cách phải nâng cao nguồn nội lực của mình, nâng sức mạnh kinh tế
tring nớc, chống sự can thiệp quá sâu từ bên ngoài.
Trong bối cảnh quốc tế phức tạp và đầy mâu thuẫn nh đã phân tích, đối
với đất nớc ta, việc xây dựng một nền kinh tế độc lập, tự chủ càng cần thiết hơn
bởi nó là điều kiện quyết định giữ vững đợc định hớng phát triển mà chúng ta đã
lựa chọn. Nói một cách khác, có xây dựng đợc một nền kinh tế độc lập tự chủ
thì mới tạo đợc cơ sở kinh tế, cơ sở vật chất kĩ thuật của chế độ chính trị độc
14
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét