Thực trang bội chi ngân sách Nhà Nước Việt Nam GVHD:Đặng Văn Cường
LỜI MỞ ĐẦU
Tăng trưởng kinh tế và phát triển đất nước bền vững ổn định là mục tiêu chung hầu
hết của các quốc gia. Trong đó, tăng trưởng kinh tế là điều kiện tiên quyết cũng là mục
tiêu. Muốn tăng trưởng kinh tế thì vốn là một yếu tố không thể thiếu trong mọi quá trình
sản xuất và hoạt động kinh doanh. Nguồn vốn huy động cho các hoạt động của cả nền
kinh tế được bắt nguồn từ nhiều nguồn: vốn đầu tư nước ngoài, vốn của các cá nhân, các
nhà đầu tư, các tổ chức… trong đó một nguồn vốn lớn đóng vai trò cực kỳ quan trọng
trong mọi nền kinh tế từ trước tới nay là ngân sách nhà nước (NSNN). Do đó, bội chi
ngân sách cũng là một vấn đề chung cho mọi quốc gia hiện nay.
Dù ở những mức độ khác nhau nhưng bội chi ngân sách nhà nước là tình trạng đang
diễn ra ở hầu hết các quốc gia trên thế giới do số thu ngân sách có hạn trong khi nhu cầu
chi tiêu của Nhà nước lại không ngừng tăng lên, dẫn đến mất cân đối chi và thu, bội chi
ngân sách xảy ra. Khi sản lượng của nền kinh tế thấp dưới mức sản lượng tiềm năng, thì
Chính phủ có thể tăng mức chi ngân sách, chấp nhận bội chi để thúc đẩy hoạt động kinh
tế. Vì vậy, bội chi ngân sách không chỉ diễn ra phổ biến đối với các nước nghèo, kém
phát triển mà xảy ra ngay cả đối với những nước thuộc nhóm các nền kinh tế phát triển
nhất (nhóm OECD). Đối với các nước đang phát triển, bội chi ngân sách thường để đáp
ứng nhu cầu rất lớn về đầu tư cơ sở hạ tầng ban đầu như: Giao thông, điện, nước Nhiều
nước phát triển và đang phát triển trong khu vực Đông Á và Đông Nam Á cũng vẫn bội
chi ngân sách. Bội chi xảy ra trong thời gian dài, quy mô lớn và tốc độ cao được coi là
nguyên nhân trực tiếp và quyết định gây ra lạm phát, đe dọa sự ổn định vĩ mô, do vậy
khó duy trì tăng trưởng cao và bền vững của nền kinh tế gây ảnh hưởng tới đời sống cùa
dân cư, làm tăng thêm gánh nặng nợ nần cho quốc gia. Thêm vào đó, bội chi ngân sách
trong thời gian còn làm giảm sút lòng tin của nhân dân vào chính sách điều hành kinh tế
vĩ mô của Chính phủ.
Và Việt Nam cũng là một quốc gia trong số đó, vì thế, việc tìm hiểu về bội chi ngân
sách nhà nước ở nước ta là một vấn đề cấp thiết. Nhà nước cũng cần đề xuất nhiều giải
pháp để kịp thời xử lý vấn đề bội chi ngân sách của nhà nước ta hiện nay.
Do đó,nhóm quyết định chọn đề tài này nhằm làm rõ các nội dung bội chi ngân sách là
gì,thực trạng bội chi ngân sách của nước ta trong các năm 2009 – 2010 và các biện pháp
của chính phủ nhằm giải quyết bội chi ngân sách nhà nước.
Với lượng kiến thức còn hạn chế, vậy nếu trong bài có gì sai sót thì nhóm mong mong
thầy hướng dẫn thêm và cho ý kiến để bài này được hoàn thiện hơn.
Nhóm SVTH: Nhóm I-NH10-K34 Trang 1
Thực trang bội chi ngân sách Nhà Nước Việt Nam GVHD:Đặng Văn Cường
I/ CƠ SỞ LÝ THUYẾT CỦA BỘI CHI NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC:
1. Định nghĩa:
Bội chi ngân sách nhà nước (hay còn gọi là thâm hụt ngân sách) trong một thời
kỳ (1 năm, 1 chu kỳ kinh tế) là số chênh lệch giữa chi lớn hơn thu của thời kỳ đó.
Phân loại:
Bội chi NSNN trong ngắn hạn:
Chi tiêu công mang tính chất thường xuyên ( thanh toán
lương, chi trả nợ, lãi vay…), trong khi đó nguồn thu thuế lại
được tiến hành từng đợt.
Thường bù đắp bằng vay ngắn hạn hay sử dụng quỹ dự trữ.
Bội chi NSNN trong dài hạn:
Trong nhiều tài khóa
Cho thấy tình trạng suy kém của khu vực công
Bù đắp thâm hụt bằng vay dài hạn hay viện trợ khẩn cấp
Thâm hụt cơ cấu : Do nhà nước thay đổi chính sách thu chi, mang
tính chủ động.
Thâm hụt chu kỳ: Do biến động củ chu kỳ kinh tế, mang tính chất bị
động.
2. Các nguyên nhân gây ra bội chi:
+ Nguyên nhân khách quan:
Do kinh tế suy thoái mang tính chất chu kỳ: Kinh tế suy thoái nguồn thu NSNN
sút giảm, nhu cầu chi tiêu gia tăng (trợ cấp xã hội, những khoản chi để phục hồi nền
kinh tế), kết quả ngân sách nhà nước cũng có thể bị bội chi.
Thiên tai, tình hình bất ổn của an ninh thế giới gia tăng nhu cầu chi cho quốc
phòng và an ninh trật tự xã hội, chi để khắc phục hậu quả thiên tai.
+ Các nguyên nhân chủ quan:
Do quản lý và điều hành ngân sách bất hợp lý: Thể hiện qua việc đánh giá và khai
thác nguồn thu chưa tốt; phân bổ và sử dụng ngân sách nhà nước còn nhiều bất cập, gây
thất thoát, lãng phí nguồn lực tài chính nhà nước; phân cấp quản lý ngân sách chưa
khuyến khích địa phương nổ lực trong khia thác nguồn thu và phân bổ chi tiêu hiệu quả.
Kết quả là thu ngân sách nhà nước không đủ trang trải nhu cầu chi tiêu.
Do nhà nước sử dụng công cụ bội chi như một công cụ sắc bén của chính sách tài
khóa để kích cầu, khắc phục tình trạng suy thoái của nền kinh tế.
Do cách đo lường bội chi.
Nhóm SVTH: Nhóm I-NH10-K34 Trang 2
Theo
thời gian
Theo
nguồn gốc
Thực trang bội chi ngân sách Nhà Nước Việt Nam GVHD:Đặng Văn Cường
3. Ảnh hưởng của bội chi ngân sách nhà nước đến nền kinh tế:
Bội chi ngân sách nhà nước là một căn bệnh tác hại đến sự phát triển kinh tế nếu xử lý
bội chi ngân sách nhà nước không đúng đắn, cho dù bội chi ngân sách nhà nước tùy
nguyên nhân nào đi chăng nữa. Bội chi ngân sách nhà nước là căn bệnh không chỉ dành
riêng cho bất kỳ quốc gia nào. Nó mang tính phổ biến tồn tại khắp các quốc gia trên thế
giới, từ những nước đang phát triển, chậm phát triển cho đến những nước có nền kinh tế
phát triển. Đó là nhu cầu chi tiêu và thực tế của nhà nước không thể cắt giảm được mà
ngày càng tăng lên, trong khi đó việc tăng thu ngân sách nhà nước từ công cụ thuế sẽ dẫn
đến sự phản hồi từ phía dân cư và các tổ chức kinh tế xã hội, và hậu quả nhận được là kìm
hãm tốc độ tích lũy vốn cho sản xuất, hạn chế tiêu dùng dẫn đến nguy cơ suy thoái nền
kinh tế cao. Còn đối với các nước đang phát triển, đặc biệt là những nước nghèo thì bội chi
ngân sách nhà nước là điều không thể tránh khỏi bởi tình trạng thu nhập bình quân đầu
ngươi quá thấp không cho phép chính phủ tăng tỉ lệ động viên từ GDP vào ngân sách nhà
nước, trong khi đó nhu cầu chi tiêu theo chức năng của chính phủ lại tăng lên, nhấtt là khi
nhà nước thực hiện các chương trình đầu tư nhằm cải thiện cơ cấu kinhtế và hướng dẫn sự
tăng trưởng.
Thực tế cho thấy, bội chi ngân sách nhà nước không có nguồn bù đắp hợp lý sẽ dẫn
đến lạm phát, gây tác hại xấu tới nền kinh tế cũng như đời sống xã hội. Nếu bội chi ngân
sách nhà nước được bù đắp bằng cách phát hành tiền thêm vào sẽ dẫn tới bù nổ lạm phát.
Bội chi ngân sách nhà nước cũng không hoàn toàn là tiêu cực. Nếu bội chi ngân sách ở
một mức độ nhất đị nh (dưới 5% so với tổng chi ngân sách trong năm) thì lại có tác dụng
kích thích sản xuất phát triển. Vì thế ở những quốc gia có nền kinh tế phát triển, nguời ta
vẫn chỉ cố gắng thu hẹp bội chi ngân sách nhà nước chứ không hề có ý loại trừ nó hoàn
toàn. Nhưng cho dù bội chi ngân sách nhà nước ở mức độ nào đi chăng nữa thì nó vẫn đòi
hỏi mọi chính phủ phải có biện pháo thích hợp để kiểm soát và kiềm chế bội chi ngân sách.
4. Các nguồn tài trợ cho bội chi:
Khi bội chi ngân sách xảy ra trong năm, thì chính phủ bắt buộc phải thực hiện các
khoản tài trợ để bù đắp bội chi.
a.Tăng thuế:
Nếu dùng thuế để tài trợ cho ngân sách nhà nước,thì ta có 2 cách:
Thứ nhất,đó là tăng thuế suất,về mặt ưu điểm thì nó sẽ làm tăng thu NSNN ngay,tuy
nhiên việc tăng thuế sẽ không hợp lòng dân,xét về lâu dài ảnh hưởng đến tình hình kinh
tế tiền tệ,làm giảm nguồn thu NSNN vì thuế suất trực thu cao sẽ thúc đẩy trốn
thuế,không kích thích kinh tế tăng trưởng.
Thứ hai,đó là mở rộng và nuôi dưỡng nguồn thu, chống thất thu có hiệu quả,việc này
giúp tăng thu mà còn đảm bảo sự công bằng về nghĩa vụ đóng góp cho NSNN,tuy nhiên
việc này khó thực hiện và triển khai trong thời gian dài.
b.Giảm chi:
Phải gia tăng tiết kiệm NSNN trên cơ sở kết hợp chính sách thuế và chi
NSNN.Điều này sẽ ít ảnh hưởng tiêu cực đến tiết kiệm của khu vực tư,tuy nhiên nó lại
gây ra phân biệt giữa lãng phí và chi kích cầu, xác định rõ những khoản chi tiêu lãng phí
để không cắt giảm tùy tiện ảnh hưởng đến nền kinh tế.
Nhóm SVTH: Nhóm I-NH10-K34 Trang 3
Thực trang bội chi ngân sách Nhà Nước Việt Nam GVHD:Đặng Văn Cường
c.Vay nợ:
Vay trong nước: Được thực hiện thông qua việc Chính phủ phát hành trái phiếu trên
thị trường tài chính trong nước.Việc này dễ triển khai, giúp Chính phủ tránh bị ảnh
hưởng hoặc o ép từ bên ngoài,đồng thời cung cấp cho thị trường tài chính một khối
lượng hàng hóa có quy mô lớn,chất lượng cao,ít rủi ro.Nhưng khả năng vay lại bị giới
hạn trong phạm vi lượng tiết kiệm của khu vực tư,đồng thời nó đẩy lãi
Vay nợ nước ngoài:Bao gồm vay từ nguồn vốn ODA, phát hành trái phiếu nhà
nước trên thị trường tài chính quốc tế. Ưu điểm của vay nợ nước ngoài là Khắc phục
được hạn chế chèn lấn đầu tư của biện pháp vay công chúng trong nước và lãi suất thấp,
thời hạn vay dài.Tuy nhiên nhược điểm lớn của vay nợ nước ngoài là chịu sự ràng buộc,
áp đặt bởi nhiều điều kiện từ phía chủ thể cho vay, chịu áp lực làm đồng nội tê tăng giá
ảnh hưởng đến xuất nhập khẩu, tình trạng cán cân thanh toán…
d.Phát hành tiền:Ưu điểm: Huy động nhanh nguồn vốn để cân đối NSNN mà không tốn
kém nhiều chi phí hành thu. Nếu phát hành tiền một cách hợp ly và sử dụng tiền một
cách hiệu quả sẽ không làm tăng lạm phát mà còn loại bỏ được sự chèn lấn đầu tư đối
với khu vực tư, thúc đẩy kinh tế tăng trưởng.Tuy nhiên nó cũng tạo áp lực lạm phát và
gây suy thoái kinh tế.
II/ THỰC TRẠNG BỘI CHI NGÂN SÁCH GIAI ĐOẠN 2008-2010 VÀ DỰ T OÁN
CHO BỘI CHI NGÂN SÁCH 2011:
1.Năm 2009:
Bảng cân đối dự toán ngân sách nhà nước năm 2009(tỷ đồng)
Chỉ tiêu Số tiền (tỷ đồng)
A Tổng thu cân đối NSNN
1 Thu nội địa (không kể thu từ dầu thô)
2 Thu dầu thô
3 Thu cân đối từ hoạt động xuất khẩu, nhập
khẩu
4 Thu viện trợ không hoàn lại
B Thu kết chuyển từ năm trước sang
C Tổng chi cân đối NSNN
1 Chi đầu tư phát triển
2 Chi trả nợ và viện trợ
3 Chi phát triển sự nghiệp kinh tế-xã hội, quốc
phòng, an ninh, quản lý hành chính nhà nước,
đảng, đoàn thể
389.900
233.000
63.700
88.200
5.000
14.100
491.300
112.800
58.800
269.300
Nhóm SVTH: Nhóm I-NH10-K34 Trang 4
Thực trang bội chi ngân sách Nhà Nước Việt Nam GVHD:Đặng Văn Cường
4 Chi cải cách tiền lương
5 Chi bổ sung quỹ dự trữ tài chính
6 Dự phòng
D Bội chi ngân sách nhà nước
Tỷ lệ bội chi so với GDP
Nguồn bù đắp bội chi
1 Vay trong nước
2 Vay ngoài nước
36.600
100
13.700
87.300
4,82%
71.300
16.000
a.Dự toán thu ngân sách nhà nước:
Dự toán thu ngân sách nhà nước: dự toán tổng thu cân đối ngân sách nhà nước năm
2009 là 389,900 tỉ đồng, đạt tỷ lệ động viên 23%GDP trong đó từ thuế phí và lệ phí là
21,5% GDP là mức động viên tích cực.
Về cơ cấu thu năm 2009 dự toán thu nội địa chiếm 59,8% tổng thu ngân sách nhà nước,
thu dầu thô chiếm 16,3%, thu cân đối từ hoạt động xuất nhập khẩu chiếm 22,6% tổng thu
cân đối ngân sách nhà nước.
Nguyên nhân chính vẫn là do tăng thu tiền sử dụng đất, thu thuế xuất nhập khẩu, nhất
là sự gia tăng đột biến các hoạt động giao dịch bất động sản và mua bán ôtô, xe máy trong
quý 4 năm 2009, làm cho các khoản thu liên quan ( thuế giá trị gia tăng, thuế thu nhập
doanh nghiệp, lệ phí trước bạ ôtô, ) tăng mạnh.
b.Dự toán chi ngân sách nhà nước:
Dự toán chi ngân sách nhà nước năm 2009 được xây dựng trên cơ sở cơ cấu lại chi
ngân sách mục tiêu góp phần kiềm chế lạm phát, ổn định vĩ mô, đảm bảo các nguyên tắc :
- Tiếp tục cơ cấu lại ngân sách, đảm bảo kinh phí thực hiện các chính sách an sinh xã
hội và điêu chỉnh tiền lương, các khoản tăng chi theo tiền lương.
- Bố trí tăng chi dự phòng, dự trữ quốc gia để đảm bảo an ninh lương thực và chủ
động phòng chống khắc phục hậu quả thiên tai dịch bệnh, bố trí đảm bảo chi trả nợ theo
đúng cam kết.
- Bố trí kinh phí cho các lĩnh vực giáo dục - đào tạo - dạy nghề, y tế , khoa học - công
nghệ, văn hoá thông tin, bảo vệ môi trường, nông nghiệp nông thôn,… theo nghị quyết của
Đảng, Quốc hội.
- Đáp ứng nhu cầu chi cho các nhiệm vụ khác trên tinh thần triệt để tiết kiệm, tiếp tục
rà soát thắt chặt chi xây dựng ,bố trí dự toán chi thường xuyên cho các bộ các cơ quan
trung ương và các địa phương cơ bản không tăng so với năm 2008, giảm mức bội chi ngân
sách nhà nước dưới 5%GDP.
Nhóm SVTH: Nhóm I-NH10-K34 Trang 5
Thực trang bội chi ngân sách Nhà Nước Việt Nam GVHD:Đặng Văn Cường
Dự toán chi ngân sách năm 2009 là 491,300 tỉ đồng ,tăng 23,1% so với dự toán năm
2008: số tăng chi này tập trung cho các nhiệm vụ chính. Về chi ngân sách nhà nước đã bố
trí theo hướng cơ cấu lại các khoản chi tập trung chi cho an sinh xã hội, đầu tư phát triển
con người thông qua giáo dục, y tế, khoa học công nghệ, đồng thời thực hiện điều chỉnh
tiền lương ở mức cao hơn so với lộ trình đã được duyệt . Được xây dựng trong bối cảnh cơ
sở dự báo tình hình kinh tế vãn còn khó khăn, diễn biến thất thường của thị trường và các
biện pháp kiềm chế lạm phát vẫn tiếp tục thực hiện, việc điều chỉnh chính sách thuế tạo
thuận lợi hơn cho sản xuất kinh doanh nhưng bước đầu làm giảm thu ngân sách nhà nước.
c. Bội chi ngân sách nhà nước
Bội chi ngân sách nhà nước ở mức 4,82% GDP (giảm 3,700 tỉ đồng so với tính bội chi
ở mức 5%) để góp phần kiềm chế lạm phát. Đây vẫn còn là tỉ lệ an toàn cho nước ta nhằm
kiểm soát mức độ bội chi ngân sách phù hợp với tình hình đất nước, nhằm đảm bảo cho
mục tiêu an sinh xã hội, tăng trưởng kinh tế, đồng thời vẫn có thể kiềm chế lạm phát.
d. Công tác tài chính ngân sách năm 2009 còn những khó khăn tồn tại.
Chi ngân sách sẽ còn tiếp tục tăng để duy trì tốc độ tăng trưởng kinh tế, trợ cấp thất
nghiệp và an sinh xã hội trong khi nguồn thu vẫn chưa thực sự rộng mở.
Cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu, suy thoái kinh tế khiến ngân sách của tất cả các
quốc gia trên thế giới bị thâm hụt nghiêm trọng. Nguyên nhân là do chính phủ các nước
phải tung ra gói cứu trợ kinh tế lên tới hàng chục, thậm chí hàng trăm tỷ USD.
2.Năm 2010:
Bảng cân đối dự toán ngân sách nhà nước năm 2010 (tỷ đồng)
Chỉ tiêu Số tiền (tỷ đồng)
A Tổng thu cân đối NSNN
1 Thu nội địa ( không kể thu từ dầu thô)
2 Thu dầu thô
3 Thu cân đối từ hoạt động xuất khẩu, nhập khẩu
4 Thu viện trợ không hoàn lại
B Thu kết chuyển từ năm trước sang
C Tổng chi cân đối NSNN
1 Chi đầu tư phát triển
2 Chi trả nợ và viện trợ
3 Chi phát triển sự nghiệp kinh tế-xã hội, quốc phòng,
an ninh, quản lý hành chính nhà nước, đảng, đoàn thể
4 Chi cải cách tiền lương
5 Chi bổ sung quỹ dự trữ tài chính
461,500
294,700
66,300
95,500
5,000
1,000
582,200
125,500
70,250
335,560
Nhóm SVTH: Nhóm I-NH10-K34 Trang 6
Thực trang bội chi ngân sách Nhà Nước Việt Nam GVHD:Đặng Văn Cường
6 Dự phòng
D Bội chi ngân sách nhà nước
Tỷ lệ bội chi so với GDP
Nguồn bù đắp bội chi
1 Vay trong nước
2 Vay ngoài nước
35,490
100
15,300
119,700
6,2%
98,700
21,000
a. Dự toán thu ngân sách nhà nước:
Dự toán thu ngân sách Nhà nước năm 2010 tại phiên họp sáng ngày 11/11 Quốc hội
cũng đã thông qua toàn bộ Nghị quyết với tổng số thu cân đối ngân sách Nhà nước là
461,500 tỷ đồng, bằng 23,9% GDP; tính cả 1,000 tỷ đồng thu chuyển nguồn năm 2009
sang năm 2010 thì tổng số thu cân đối ngân sách Nhà nước là 462.500 tỷ đồng .
Thực tế, năm 2010, ước tính thu ngân sách Nhà nước cả năm đạt 528.100 tỷ đồng vượt
vượt 14,4% so với dự toán, tăng 19,4% so với năm 2009. Trong đó thu nội địa (không kể
thu tiền sử dụng đất) ước đạt 64% tổng thu.
b. Dự toán chi ngân sách nhà nước:
Dự toán tổng số chi cân đối ngân sách Nhà nước là 582,200 tỷ đồng. Ngân sách nhà
nước đã chi cho an sinh sinh xã hội ước khoảng 72.120 tỷ đồng, tăng gần 5% so với năm
2009. Ngân sách đã chi cho công tác phòng chống, khắc phục hậu quả thiên tai, dịch bệnh
trong năm 2010 khoảng 5.400 tỷ đồng. Ngoài ra, đã xuất dự trữ quốc gia cấp không thu
tiền trên 81,4 nghìn tấn gạo để cứu trợ nhân dân vùng thiếu đói giáp hạt và bị thiệt hại do
thiên tai Đối với giải ngân vốn đầu tư XDCB ước thực hiện cả năm đạt khoảng 92 - 95%
dự toán; vốn trái phiếu Chính phủ đạt 100% dự toán.
c.Bội chi ngân sách nhà nước:
Mức bội chi ngân sách nhà Nước là 119,700 tỷ đồng, bằng 6,2% GDP.Thực tế bội chi
NSNN năm 2010 bằng 5,8% GDP, giảm 0,4% so với mục chỉ tiêu của Nghị quyết Quốc
hội là 6,2%GDP.
Bộ Tài chính cho biết năm 2010 các công cụ thuế, phí, lệ phí… đối với hàng hóa xuất,
nhập khẩu đã được sử dụng linh hoạt để đẩy mạnh xuất khẩu, nhập khẩu đã được sử dụng
linh hoạt để đẩy mạnh xuất khẩu, kiểm soát nhập khẩu, khuyến khích sử dụng hàng hóa
sản xuất trong nước để hạn chế nhập siêu.
Bên cạnh đó là việc đẩy mạnh triển khai thủ tục hải quan điện tử, hiện đại hóa thu
NSNN nhằm giảm thiểu chi phí, thời gian cho các doanh nghiệp hoạt động xuất nhập
khẩu .
Nhóm SVTH: Nhóm I-NH10-K34 Trang 7
Thực trang bội chi ngân sách Nhà Nước Việt Nam GVHD:Đặng Văn Cường
Theo các chuyên gia tài chính, trong giai đoạn hiện tại, nhu cầu phát triển kinh tế kéo
theo yêu cầu đầu tư xây dựng hạ tầng lớn. Đồng thời các chính sách an sinh xã hội cũng
cần được đầu tư trên diện rộng nên bội chi sẽ còn tiếp tục.
Do vậy, để đảm bảo ổn định kinh tế vĩ mô và an ninh tài chính quốc gia, Bộ Tài chính
đưa ra mục tiêu sẽ giữ tỷ lệ bội chi ngân sách trung bình giai đoạn 2011-2015 mức dưới
5% GDP.
d.Công tác tài chính ngân sách năm 20 0 9 còn những mặt đạt được:.
Đối với vấn đề nợ công, tính đến hết 31/12/2010, dư nợ Chính phủ bằng 44,3%GDP,
dư nợ quốc gia bằng 42,2%GDP và dư nợ công bằng 56,6%GDP. Tuy nhiên, xét về cơ cấu,
tỷ trọng huy động vay nợ trong nước ngày càng tăng, vay nợ nước ngoài giảm; các khoản
vay nước ngoài của Chính phủ phần lớn đều có thời hạn dài, lãi suất ưu đãi, việc bố trí
thanh toán nợ hàng năm đều bảo đảm đầy đủ, đúng hạn, không có nợ xấu.
4. Năm 2011:
Theo thông tin từ Bộ Tài Chính, sau khi thảo luận đánh giá thực hiện ngân sách nhà
nước năm 2010, dự toán ngân sách nhà nước năm 2011 với các Bộ, cơ quan Trung ương và
63 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, dự toán ngân sách nhà nước năm 2011 như sau:
a. Dự toán thu ngân sách nhà nước:
Dự toán thu ngân sách nhà nước năm 2011: 595.000 tỷ đồng, tăng 12,7% so với ước
thực hiện năm 2010.
Thu nội địa từ hoạt động sản xuất - kinh doanh (không kể thu tiền sử dụng đất):
352.000 tỷ đồng, tăng 19,3% so ước thực hiện năm 2010. Trong đó, dự toán thu từ khu vực
kinh tế quốc doanh tăng 19,9%; thu từ khu vực doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài
tăng 19,8%; thu từ khu vực công thương nghiệp ngoài quốc doanh tăng 22,2%; thu thuế
thu nhập cá nhân tăng 23,7% so với ước thực hiện năm 2010.
Thu tiền sử dụng đất: 30.000 tỷ đồng. Trong đó 11 địa phương thu trên 5.000 tỷ đồng,
tăng 01 địa phương so với ước thực hiện năm 2010 (Khánh Hòa); 29 địa phương thu đạt từ
1.000 - 3.000 tỷ đồng, tăng 04 địa phương so với ước thực hiện năm 2010 (Sơn La, Quảng
Bình, Phú Yên, Kon Tum); 12 địa phương thu đạt từ 500 - 1.000 tỷ đồng; chỉ còn 05 địa
phương thu dưới 500 tỷ đồng, giảm 01 địa phương (Ninh Thuận) so với ước thực hiện năm
2010.
Dự toán thu dầu thô: Dự kiến đạt 69.300 tỷ đồng, trên cơ sở dự kiến sản lượng đạt
14,02 triệu tấn, giá bình quân đạt 77 USD/thùng.
Thu cân đối từ hoạt động xuất nhập khẩu: 180.700 tỷ đồng, tăng 12,4% so với ước thực
hiện năm 2010.Trên cơ sở đó, dự toán thu ngân sách nhà nước năm 2011 từ hoạt động xuất
nhập khẩu là 180.700 tỷ đồng, tăng 12,4% so với ước thực hiện năm 2010, trong đó thu từ
thuế xuất nhập khẩu, thuế tiêu thụ đặc biệt hàng nhập khẩu là 80.400 tỷ đồng, tăng 12%;
dự toán thu từ thuế giá trị gia tăng hàng nhập khẩu là 100.300 tỷ đồng, tăng 12,7% so với
ước thực hiện năm 2010.Sau khi trừ đi số chi hoàn thuế theo chế độ năm 2011 dự kiến là
42.000 tỷ đồng, thì dự toán thu cân đối ngân sách nhà nước từ hoạt động xuất nhập khẩu
năm 2011 là 138.700 tỷ đồng, tăng 14% so với ước thực hiện năm 2010.
Thu viện trợ không hoàn lại: 5.000 tỷ đồng, bằng dự toán năm 2010
Nhóm SVTH: Nhóm I-NH10-K34 Trang 8
Thực trang bội chi ngân sách Nhà Nước Việt Nam GVHD:Đặng Văn Cường
b.Dự toán chi ngân sách nhà nước:
Dự toán chi ngân sách nhà nước năm 2011: 725.600 tỷ đồng
Dự toán chi đầu tư phát triển: 152.000 tỷ đồng, tăng 21,1% (26.500 tỷ đồng) so dự toán
năm 2010, chiếm 20,9% tổng chi ngân sách nhà nước để thực hiện các nhiệm vụ đảm bảo
an sinh xã hội và phát triển kinh tế.
Dự toán chi trả nợ, viện trợ: Bố trí 86.000 tỷ đồng, tăng 22,4% so dự toán năm 2010,
chiếm 11,9% tổng chi ngân sách nhà nước để đảm bảo chi trả các khoản nợ trong và ngoài
nước đến hạn.
Dự toán chi thường xuyên: 442.100 tỷ đồng, tăng 18,1% so với dự toán năm 2010 (đã
tính đủ tiền lương 12 tháng theo mức tiền lương tối thiểu 730.000 đồng/tháng), chiếm
60,9% tổng chi ngân sách nhà nước; kể cả chi điều chỉnh tiền lương trong năm 2011 thì
chiếm 64,6% tổng chi ngân sách nhà nước.
Dự toán chi thực hiện cải cách tiền lương: 27.000 tỷ đồng, chiếm 3,7% tổng chi ngân
sách nhà nước để từ 01/5/2011 thực hiện điều chỉnh tiền lương tối thiểu từ 730.000
đồng/tháng lên mức 830.000 đồng/tháng (tăng 13,7%), lương hưu và trợ cấp ưu đãi người
có công tăng bằng tốc độ tăng lương tối thiểu; thực hiện chế độ phụ cấp công vụ với mức
10%; thực hiện phụ cấp thâm niên ngành giáo dục theo Nghị quyết của Quốc hội.
Dự toán chi bổ sung quỹ dự trữ tài chính địa phương: 100 tỷ đồng.Dự phòng ngân sách
nhà nước: Bố trí 18.400 tỷ đồng, bằng 2,6% tổng chi ngân sách nhà nước.
c.Bội chi ngân sách nhà nước:
Để phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội và khả năng trả nợ trong năm tới,
Chính phủ đã trình Quốc hội quyết định mức bội chi ngân sách nhà nước năm 2011 là
120.600 tỷ đồng, bằng 5,3% GDP.
III/ CÁC GIẢI PHÁP XỬ LÝ BỘI CHI NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC;
Theo như tình hình thực trạng trên thì trong giai đoạn 2008-2010, chúng ta đã kiểm
soát được bội chi ngân sách ở mức giới hạn cho phép dưới 5% ( trừ 2010) và nguồn vốn
vay chủ yếu được chi cho đầu tư phát triển. Ngoài ra chúng ta cũng tích lũy được một phần
từ nguồn thu thuế, phí, lệ phí để đầu tư phát triển. Đây cũng là những thành công bước đầu
đáng ghi nhận trong công tác quản lý cân đối ngân sách nhà nước cũng như kiểm soát bội
chi ngân sách nhà nước.
Trong thời gian vừa qua, Nhà nước đã có nhiều biện pháp nhằm xử lý bội chi ngân
sách và mang lại nhiều hiệu quả đáng kể:
1.Tăng thu, giảm chi :
Đây là biện pháp cơ bản nhất mà chính phủ thương dùng để giảm bội chi ngân sách.
Bằng quyền lực và nghĩa vụ của mình chính phủ tính toán để tăng các khoản thu và cắt
giảm chi tiêu .
Tăng thu và giảm chi là biện pháp cổ tryền nhưng không phải bao giờ cũng thực hiện
thành công được bởi vì ở đây xảy ra hai nghịch lí khó giải quyết. Một là: trong bối cảnh tỉ
lệ tăng trưởng GDP chưa lớn sẽ ảnh hưởng đến khả năng đầu tư vào tiêu dùng ở khu vực
tư nhân bị hạn chế ,tức giảm động lực phát triển kinh tế. Hai là: khả năng giảm chi cũng có
Nhóm SVTH: Nhóm I-NH10-K34 Trang 9
Thực trang bội chi ngân sách Nhà Nước Việt Nam GVHD:Đặng Văn Cường
giới hạn nhất định, nếu giảm chi vượt quá giới hạn thì cũng ảnh hưởng không tốt đến quá
trình phát triển xã hội
Chính vì thế vấn đề đặt ra là chính phủ phải tính toán phí tăng thu và giảm chi như thế
nào để gây ảnh hưởng ít nhất đến tăng trưởng kinh tế.
a.Tăng thu.
Công tác thu ngân sách nhà nước phải đảm bảo mức động viên vào ngân sách nhà nước
hợp lý tăng nhanh tỉ trọng nội địa trong tổng thu ngân sách nhà nước tập trung thực hiện
thu đúng,đủ ,kịp thời theo các luật thuế nhằm động viên hợp lý, khuyến khích sản cuất
kinh doanh phát triển và đảm bảo nguồn lực thực hiện nhiệm vụ quan trọng phát triển kinh
tế xã hội trong điều kiện hội nhập quốc tế chủ động ứng phó với cấc tác động của thị
trường giá cả trong và ngoài nước, đồng thời đẩy mạnh thực hiện cải các thủ tục hành
chính, hải quan và mổ rộng cơ chế tự khai tự nộp tăng trách nhiệm người nộp thuế và cơ
quan thu, tăng cường kiểm tra chống thất thu, nợ đọng tạo môi trường thuận lợi bình đẳng
trong mọi doanh nghiệp của các thành phần kinh tế.
Có cơ chế khuyến khích các cấp tăng thu được hưởng hợp lý kết quả tăng thu so với
nhiệm vụ nhà nước giao theo quy định pháp luật. Hiện nay tình trạng nợ đọng thuế chưa
được kiểm soát chặt chẽ.Vì vậy chính phủ cần phải có giải pháp kiên quyết hơn trong việc
kiểm soát nguồn thu từ thuế ,có biện pháp kiểm soát hiệu quả thì sẽ góp phần tăng thu ngân
sách nhà nước như: Đẩy mạnh tuyên truyền giáo dục để nâng cao hiểu biết và tự giác thực
hiện nghĩ vụ thuế;đẩy mạnh kiểm tra ,thanh tra phát hiện và xủ lý kịp thời các trường hợp
kê khai không đúng, không đủ số thuế phải nộp để tăng thu tiền thuế cho ngân sách nhà
nước.
Chính phủ cũng cần phải cải thiện các nguồn thu ngân sách này tránh tình trạng ngân
sách phụ thuộc quá nhiều (tới hơn 40% vào các nguồn thu không bền vững từ dầu mỏ và
thuế nhập khẩu như hiện nay). Cải cách thuế đặc biệt là thuế thu nhập cá nhân (hiện chiếm
2% ngân sách nhà nước của Việt Nam, trong khi con số này ở các nền kinh tế hiện đại đều
lớn hơn 20%) và thuế bất động sản. Áp dụng thuế bất động sản đúng đắn là một cách đảm
bảo sự bền vững trong ngân sách nhà nước, đồng thời giúp nhà nước thực hiện được các
chương trình đầu tư cơ sở hạ tầng vì quốc tế nhân sinh.
Chính phủ điều chỉnh tăng mức thuế xuất, thuế nhập bằng trần tối đa theo cam kết
trong WTO của năm 2008 đối với các hàng hóa tiêu dùng không khuyến khích nhập khẩu
(ô tô nguyên chiếc, linh kiện và phụ tùng mô tô, một số mặt hàng điện tử điện lạnh,…) ;
điều chỉnh giảm thuế nhập khẩu đối với một số nhóm mặt hang thiết thực phục vụ sản xuất
(một số mặt hang sản xuất thức ăn chăn nuôi, giấy in báo,…) để góp phần bình ổn giá điều
chỉnh tăng thuế xuất khẩu đối với hang hóa là tài nguyên thiên nhiên, khoáng sản (dầu
thô,than đá, quặng kim loại,…) điều chỉnh tăng lệ phí trước bạ đối với ô tô con nguyên
chiếc dưới 10 chỗ ngồi; thực hiện biện pháp kéo dài, giãn thời hạn nộp thuế và giảm thuế
đối với các đơn vị sản xuất kinh doanh, hoạt động chế biến và xuất khẩu, tạo điều kiện cho
các doanh nghiệp vượt qua khó khăn do giá đầu vào tăng cao, duy trì và tăng sản xuất xuất
khẩu.
b.Giảm chi
Triệt để tiết kiệm các khoản đầu tư công và chi thường xuyên từ ngân sách nhà nước.
Đây là một giải pháp tuy mang tính tình thế ,nhưng vô cùng quan trọng với mỗi quốc gia
khi xảy ra bội chi ngân sách và xuất hiện lạm phát.
Nhóm SVTH: Nhóm I-NH10-K34 Trang 10
Thực trang bội chi ngân sách Nhà Nước Việt Nam GVHD:Đặng Văn Cường
Triệt để tiết kiệm các khoản đầu tư công có nghĩa là chi đầu tư vào những dự án mang
tính chủ đạo, hiệu quả nhằm tạo ra những đột phá cho sự phát triển kinh tế _xã hội . Bên
cạnh đó, những khoản chi thường xuyên của nhưng cơ quan nhà nước cũng phải cắt giảm
nếu những khoản chi này không hiệu quả và chưa thực sự cần thiết.
Một trong những giải pháp quan trọng được quốc hội thông qua là cơ cấu lại chi ngân
sách nhà nước theo hướng ưu tiên cho an sinh xã hội; tăng chi có trọng điểm cho phát triển
nông nghiệp, nông thôn và những vùng khó khăn, nhất là 61 huyện có tỉ lệ nghèo cao.
Quốc hội quyết định: Cần rà soát kỹ nguồn vốn nhà nước bố trí cho các dự án, công
trình thuộc trách nhiệm đầu tư của ngân sách nhà nước sao cho các tập đoàn, tổng công ty
nhà nước thực hiện. Không bố trí vốn ngân sách nhà nước cho các dự án công trình không
thuộc lĩnh vực ngân sách nhà nước đầu tư.
Chính phủ Việt Vam vì được đặt trong bối cảnh chống lạm phát nên chính sách tài
khóa của Chính phủ trong thời gian vừa qua chỉ hướng đến mục đích giảm chi tiêu công
(gồm đầu tư công và chi thường xuyên) và qua đó giảm tổng cầu. Cụ thể Chính phủ chỉ
định:
- Cắt giảm nguồn đầu tư từ ngân sách và tín dụng nhà nước đồng thời rà soát và cắt bỏ các
hạng mục đầu tư kém hiệu quả của các doanh nghiệp nhà nước và cắt giảm chi thường
xuyên của bộ máy nhà nước các cấp .
Mặc dù việc cắt giảm chi tiêu là hoàn toàn đúng đắn, song hiệu lực của những biện pháp
cụ thể đến đâu còn chưa chắc chắn vì ít nhất có 4 lý do:
Thứ nhất, việc cắt giảm ,thậm chí giãn tiến độ đầu tư công không hề dễ dàng, nhất là
khi những dự án này đã được các cơ quan lập các cấp quyết định, đã được đưa vào quy
định của các bộ, ngành địa phương, đã được triển khai, và nhất là khi chúng gắn với lợi ích
thiết thực của những cơ quan liên quan đến dự án .
Thứ hai, nhà nước hầu như không thể kiểm soát các khoản đầu tư của các DNNN một
mặt là do chính sách phân cấp trong quản lý đầu tư, và mặt khác là do một số tập đoàn lớn
đã tự thành lập ngân hàng riêng.
Thứ ba, với tốc độ lạm phát nhanh như hiện nay thì chỉ cần giữ được tổng mức đầu tư
công theo đúng dự toán cũng được coi là một thành tích đáng kể
Thứ tư, kinh nghiệm quốc tế cho thấy rằng việc giảmchi thường xuyên rất khó khăn
nên đây là hạng mục cuối cùng nằm trong danh sách cắt giảm.
2.Vay nợ :
a. Vay nợ trong nước :
Sự thiếu hụt ngân sách do nhu cầu vốn tài trợ cho sự phát triển nền kinh tế quá lớn đòi
hỏi phải đi vay để bù đắp. Điều này được thể hiện qua việc chúng ta chỉ vay để đầu tư phat
triển kết cấu ha tầng và các công trình trọng điểm quốc gia phục vụ lợi ích phát triển đất
nước. Nhưng trên thực tế số tiền vay, đặc biệt của nước ngoài chưa được quản lý chặt chẽ.
Tình trạng đầu tư dàn trải ở các địa phương vẫn chưa đươc khắc phục triệt để tiến độ thi
công nhưng dự án trọng điểm quốc gia còn chậm và thiếu hiệu quả. Chính vì vậy các
khoản đầu tư phát triển lấy từ nguồn vốn nay cả trong và ngoài nước cần đảm bảo các quy
định của ngân sách nhà nước và mức bội chi cho phép hằng năm do quốc hội quyết định.
Nhóm SVTH: Nhóm I-NH10-K34 Trang 11
Thực trang bội chi ngân sách Nhà Nước Việt Nam GVHD:Đặng Văn Cường
Tập trung các khoản vay do trung ương đảm nhận các nhu cầu đầu tư của địa phương
cần được xem xét và thực hiện bổ xung từ ngân sách cấp trên thực hiện như vậy, tránh
được đầu tư tràn lan kém hiệu quả và để tồn ngân sách quá lớn quản lý chặt chẽ số bội chi
ngân sách nhà nước. Hiên tại chúng ta đang đứng trước mâu thuẫn giữa nhu cầu vốn cho
vay đầu tư với nguồn nhân lực hạn hẹp . Nếu thực hiện thắt chặt, hạn chế vay để đầu tư sẽ
kìm hãm sự phát triển của nền kinh tế đang có nhu cầu vay vốn rất cao. Nhưng nếu chung
ta không kiểm soát chặt chẽ các khoản vay của ngân sách nhà nước, nhất là vay vốn của
ngân sách địa phương thi nguy cơ ảnh hưởng tới nên an ninh tài chính quốc gia, sự bền
vững của ngan sách nhà nước.Thực hiện đầu tư tập trung cũng có lợi là bảo đảm phát triển
hài hòa cân đối giưa các vùng miền trong toàn quốc . Khi các địa phương vay vốn để đầu
tư sẽ kien quyết không bố trí nguồn chi thường xuyên cho việc vận hành các công trình khi
hoàn thành và đi vào hoạt động cũng như chi phí duy tu ,bả dưỡng các công trình, làm
giảm hiệu quả đầu tư. Có như vậy các địa phương phải tự cân đói nguồn kinh phí này chứ
không thể yêu cầu cấp trên bổ sung ngân sách nhà nước.
Vay trong nước được chính phủ thực hiện dưới hình thức phát hành công trái, trái
phiếu .Công trái, trái phiếu là những chứng chỉ ghi nhận nợ của nhà nước, là một loại
chứng khoán hay trái khoán do nhà nước phát hành để vay các dân cư, các tổ chức kinh tế
xã hội và các ngân hàng. Ở Việt Nam, Chính phủ thường ủy nhiệm cho Kho bạc nhà nước
phát hành trái phiếu dưới các hình thức tín phiếu kho bạc và trái phiếu kho bạc, trái phiếu
công trình.
Đặc biệt, ở những nước trải qua giai đoạn lạm phát cao (như nước ta hiện nay), giá trị
thực của trái phiếu chính phủ giảm nhanh chóng ,làm cho chúng trở nên ít hấp dẫn.Chính
phủ có thể sử dụng quyền lực của mình để buộc các chủ thể khác trong nền kinh tế phải
giữ trái phiếu.Tuy nhiên, nếu việc làm này kéo dài sẽ gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến uy
tín của chính phủ và khiến cho việc huy động vốn thông qua kênh này sẽ trở nên khó khăn
hơn vào các năm sau.
Một số điểm đã đạt được : Đối với vay nợ trong nước: hàng năm ngân hàng phải huy
động một khoản tiền nhàn rỗi trong nước tương đối lớn để bù đắp bội chi ngân sách. Để
việc huy động vốn không ảnh hưởng lớn đến thị trường tiền tệ, đến lãi suất, Bộ tài chính
thực hiện chính sách trước hết thực hiện vay vốn nhàn rỗi từ các quỹ tài chính nhà nước
như : quỹ bảo hiểm xã hội, quỹ tích lũy trả nợ phần còn thiếu sẽ thực hiện phát hành trái
phiếu và tín phiếu chính phủ . Đối với tín phiếu (loại thời hạn1năm), thực hiện phối hợp
với ngân hàng nhà nước đấu thầu (đấu thầu về lãi suất ) qua ngân hàng nhà nước, đây là
biện pháp vừa để đảm bảo nguồn bù đắp bội chi cho ngân sách nhà nước , đồng thời cũng
tạo điều kiện cho các tổ chức tín dụng có nguồn vốn nhàn rỗi, chưa cho vay được thực hiện
mua trái phiếu này (kết quả cho thấy trong năm qua nhiều tổ chức tín dụng đã mua tín
phiếu kho bạc).
b.Vay nợ nước ngoài :
Chính phủ có thể giảm bội chi ngân sách bằng các nguồn vốn nước ngoài thông qua
việc nhận viện trợ nước ngoài hoặc vay nợ nước ngoài từ các Chính phủ nước ngoài, các
định chế tài chính thế giới như ngân hàng thế giới (WB), Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF),
Ngân hàng Phát triển Châu Á (ADB), các tổ chức liên chính phủ, tổ chức quốc tế, …
Nhóm SVTH: Nhóm I-NH10-K34 Trang 12
Thực trang bội chi ngân sách Nhà Nước Việt Nam GVHD:Đặng Văn Cường
Viện trợ nước ngoài là nguồn vốn phát triển của các chính phủ ,các tổ chức nhằm thực
hiện các chương trình hợp tác phát triển kinh tế xã hội và hiện nay chủ yếu là nguồn vốn
phát triển chính thức ODA.
Vay nợ nước ngoài có thể thực hiện dướicác hình thức phát hành trái phiếu bằng ngoại
tệ mạnh ra nước ngoài, vay bằng hình thức tín dụng,…
3.Vay nợ ngân hàng (in tiền):
Chính phủ khi bị thâm hụt ngân hàng sẽ đi vay ngân hàng trung ương để bù đắp. Đáp
ứng nhu cầu này ,tất nhiên ,ngân hàng trung ương sẽ tăng việc in tiền .Điều này sẽ tạo ra
thêm cơ sở tiền tệ .Chính vì vậy ,nó được gọi là tiền tệ hóa thâm hụt.
Ưu điểm: Nhu cầu tiền để bù đắp ngân sách nhà nước được đáp ứng một cá nhanh chóng,
không phải trả lãi, không phải gánh thêm các gánh nặng nợ nần
Nhược điểm: Lớn hơn rất nhiều lần .Việc in thêm và phát hành thêm tiền sẽ khiến cho
cung tiền vượt cầu tiền. nó đẩy cho việc lạm phát trở nên không thể kiểm soát nổi.
Một minh chứng cho nhược điểm này là Viêt nam từ năm1988 trở về trước bội chi
ngân sách được nhà nước bù đắp chủ yếu bằng cách phát hành thêm tiền vào lưu thông dẫn
đến tốc độ lạm phát rất cao, năm 1986 là 774,7%, năm 1987 là 223,1%, 1988 là 393,8%;
nhưng từ năm1991 mặc dù bội chi ngân sách còn ở mức lớn, độ bù đắp bằng các biện pháp
tích cực khác nên lạm phát đã giảm nhanh và đã được kiểm soát ở mức một con số cho đến
nay. Chính vì những hậu quả đó, biện pháp này rất ít khi được sử dụng. Và từ năm 1992
nước ta đã chấm dứt hoàn toàn việc in tiền để bù đắp bội chi ngân sách nhà nước.
4.Tăng cường vai trò quản lý của nhà nước:
Tăng cường vai trò quản lý của nhà nước nhằm bình ổn giá cả, ổn định chính sách kinh
tế vĩ mô và nâng cao hiệu quả hoạt động trong các khâu của nền kinh tế. Để thực hiện vai
trò của mình, nhà nước sư dụng một hệ thống chính sách và công cụ quản lý vĩ mô để điều
khiển, tác động vào đời sống kinh tế -xã hội, nhằm giải quyêt các mối quan hệ trong nền
kinh tế cũng như đời sống xã hội, nhất là mối quan hệ tăng trưởng và công bằng xã hội,
giữa tăng trưởng kinh tế với giữ gìn mội trường v.v…Đặc biệt trong điều kiện hiện nay,
khi lạm phát là một vấn nạn của các nước trên thế giới, vấn đề tăng cường vai trò quản lý
của các nước trên thế giới, vấn đề tăng cường vai trò vai trò quản lý của nhà nước đối với
quản lý ngân sách nhà nước nói chung và xử lý bội chi ngân sách nói riêng có ý nghĩa vô
cùng cấp thiết.
KẾT LUẬN
Như vậy, bội chi ngân sách nhà nước hiện đang là một vấn đề được quan tâm. Bội chi
ngân sách không hoàn toàn là tiêu cực. Nếu bội chi ngân sách vượt quá 5% thì nó sẽ ảnh
Nhóm SVTH: Nhóm I-NH10-K34 Trang 13
Thực trang bội chi ngân sách Nhà Nước Việt Nam GVHD:Đặng Văn Cường
hưởng xấu tới quốc gia, tuy nhiên nếu giữ được bội chi ngân sách ở mức độ vừa phải thì sẽ
kích thích được tiêu dùng và tăng trưởng.
Có nhiều cách để chính phủ bù đắp bội chi ngân sách nhà nước, nhưng phải sử dụng
cách nào, nguồn nào thì còn phụ thuộc nhiều vào điều kiện kinh tế, chính sách kinh tế tài
chính trong từng thời kỳ, bởi mỗi giải pháp bù bắp đều có những ưu nhược điểm làm ảnh
hưởng đến cân đối kinh tế vĩ mô. Và hậu quả của bội chi ngân sách nhà nước là ảnh hưởng
nghiêm trọng tới kinh tế xã hội của đất nước dù mức nào đi chăng nữa. Vì vậy, chính phủ
Việt Nam cần phải tính toán kỹ lưỡng để đưa ra các giải pháp bù đắp phù hợp với thực
trạng hiện nay, khi nền kinh tế của Việt Nam đang hoạt động theo cơ chế thị trường có sự
quản lý của nhà nước, nền tài chính quốc gia cũng được đổi mới .
Tài liệu tham khảo:
Giáo trình Tài Chinh Công (Trường Đại Học Kinh Tế TPHCM)
Nhóm SVTH: Nhóm I-NH10-K34 Trang 14
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét