CHƯƠNG XI: THUYẾT TĂNG TRƯỞNG VÀ PHÁT TRIỂN KINH
TẾ
I. SỰ PHÂN LOẠI CÁC QUỐC GIA, TĂNG TRƯỞNG VÀ PHÁT
TRIỂN KINH TẾ:
1. Định Nghĩa:
Vào cuối những thập kỷ 40 và đầu thập kỷ 50 của thế kỷ XX, sự phân biệt
giàu nghèo giữa các quốc gia trên thế giới quá cách biệt. Các nước giàu bao
gồm các nước Tây – Bắc Âu, Mỹ, Úc, Newzealand và Nhật Bản; còn các
nước nghèo tập trung ở châu Á, châu Phi và châu Mỹ La Tinh. Nhưng khoảng
cách này dần dược thu hẹp vào những năm 90 của thế kỷ XX. Song nói chung
các nước ở châu Á, châu Phi và châu Mỹ La Tinh vẫn là các nước nghèo.
Sự phân chia các nước phát triển, các nước đang phát triển và các nước
kém phát triển được nhiều nước quan tâm.Sự phân loại trình độ phát triển các
quốc gia chủ yếu dựa trên thu nhập GDP bình quân đầu người. Dựa vào tiêu
chí này, năm 1986 Ngân hàng thế giới (WB) đã phân chia trình độ phát triển
các quốc gia trên thế giới thành 3 nhóm:
Một là, nhóm các nước có thu nhập thấp, là những quốc gia có thu nhập
bình quân đầu người dưới 450 đô/người/năm.
Hai là, nhóm các nước có thu nhập trung bình, là những quốc gia có thu
nhập bình quân đầu người dưới 450 đến 6000 đô/người/năm.
Ba là, nhóm các nước có thu nhập cao, là những quốc gia có thu nhập bình
quân đầu người dưới 6000 đến 10000 đô/người/năm.
2. Đặc trưng cơ bản của các nước đang phát triển:
Hầu hết trước đây là thuộc địa của Tây Âu
Kinh tế nông nghiệp chiếm tới 65 – 75% GDP
Thiếu vốn và công nghệ hiện đại; kỹ thuật sản xuất công nghiệp lạc hậu;
tỷ lệ tăng trưởng GDP thấp.
Ngoại thương kém phát triển, thường là nhập siêu
Dân số tăng nhanh 2,1%/năm. Dân số ở các nước đang phát triển chiếm
¾ dân số thế giới, mật độ dân số cao.
Trang 1
Nhân dân có sức khỏe thấp, chế độ dinh dưỡng nghèo nàn. Tuổi thọ
trung bình thấp (dưới 60 tuổi).
3. Khái niệm về tăng trưởng và phát triển kinh tế:
a.Tăng trưởng kinh tế:
Theo định nghĩa của Ngân hàng thế giới (WB) trong “Báo cáo về phát
triển thế giới năm 1991” cho rằng: Tăng trưởng kinh tế chỉ là sự gia tăng
về lượng của những đại lượng chính đặc trưng cho một trạng thái kinh
tế, trước hết là tổng sản phẩm xã hội, có tính đến mối liên quan với dân
số.
Trong tác phẩm “kinh tế học của các nước phát triển”, thì nhà kinh tế học
E.Wayne Nafziger cho rằng: “Tăng trưởng kinh tế là sự gia tăng về lượng
hoặc sự tăng lên về thu nhập bình quân đầu người của một nước.”
Như vậy, có nhiều cách định nghĩa khác nhau, song có thể định nghĩa một
cách khái quát như sau:
“Tăng trưởng kinh tế là sự gia tăng về tổng sản phẩm xã hội và tăng thu
nhập bình quân đầu người.”
Tăng trưởng kinh tế bền vững:
Tăng trưởng kinh tế bền vững là tăng trưởng kinh tế đạt mức tương đối
cao và ổn định trong thời gian tương đối dài(20-30 năm)
Tăng trưởng kinh tế phụ thuộc vào những yếu tố cơ bản:
Một là, vốn: đây là yếu tố rất quan trọng trong tăng trưởng kinh tế.
Hai là, con người: là yếu tố cơ bản của tăng trưởng kinh tế bền vững. Đó
phải là con người có sức khỏe, trí tuệ, tay nghề cao, có động lực và nhiệt tình
lao động được tổ chức chặt chẽ.
Ba là, kỹ thuật và công nghệ: kỹ thuật hiện đại, công nghệ tiên tiến là yếu
tố quyết định chất lượng của sự tăng trưởng kinh tế, vì nó tạo ra năng suất lao
động cao, do đó tích lũy đầu tư lớn.
Bốn là, cơ cấu kinh tế: xây dựng được cơ cấu kinh tế càng hiện đại thì
tăng trưởng kinh tế càng nhanh và bền vững.
Trang 2
Năm là, thể chế chính trị và quản lý nhà nước: thể chế chính trị càng ổn
định, tiến bộ thì tăng trưởng kinh tế càng nhanh. Nhà nước càng đề ra được
các đường lối, chính sách phát triển kinh tế đúng đắn thì tăng trưởng kinh tế
càng nhanh.
b. Phát triển kinh tế:
Theo WB, trong “Sự thách thức của phát triển” năm 1991 cho rằng: Phát
triển kinh tế là sự tăng bền vững về các tiêu chuẩn sống bao gồm tiêu dùng
vật chất, giáo dục, sức khỏe và bảo vệ môi trường.
Cũng theo WB trong “Báo cáo về phát triển năm 1992 – Phát triển và môi
trường” cho rằng: Phát triển kinh tế và nâng cao phúc lợi của nhân dân,
nâng cao tiêu chuẩn sống và cải tiến giáo dục, sức khỏe và bình đẳng về cơ
hội.
Nhà kinh tế học E. Wayne Nafziger trong tác phẩm “Kinh tế học của các
nước đang phát triển” thì cho rằng: Phát triển kinh tế là sự tăng trưởng kinh
tế theo những thay đổi về phân phối sản lượng và cơ cấu kinh tế.
Hiện nay người ta định nghĩa khái quát phát triển kinh tế như sau: Phát
triển kinh tế là sự tăng trưởng kinh tế đi kèm với sự tiến bộ của cơ cấu
kinh tế, thể chế kinh tế và chất lượng cuộc sống.
§ Như vậy, phát triển kinh tế bao gồm những nội dung chủ yếu sau:
Thứ nhất là, sự tăng trưởng là sự tăng lên của tổng sản phẩm xã hội và thu
nhập bình quân đầu người.
Thứ hai là, sự biến đổi cơ cấu kinh tế theo hướng: Tỷ trọng ngành nông
nghiệp ngày càng giảm, tỷ trọng ngành công nghiệp và dịch vụ ngày càng
tăng trong tổng sản phẩm quốc dân.
Thứ ba là, đời sống của nhân dân ngày càng cao về phúc lợi xã hội, tiêu
chuẩn sống, giáo dục, sức khỏe và sự bình đẳng về kinh tế, chính trị, xã hội.
Mục tiêu của các quốc gia không chỉ dừng lại ở phát triển kinh tế mà cơ
bản hơn là phát triển kinh tế bền vững.
Trang 3
Phát triển kinh tế phụ thuộc các yếu tố sau:
Một là, lực lượng sản xuất: trình độ phát triển của lực lượng sản xuất càng
cao tức công nghệ càng hiện đại và trình độ con người càng cao thì càng thúc
đẩy phát triển kinh tế nhanh.
Hai là, quan hệ sản xuất: Quan hệ sản xuất mà phù hợp với tính chất và
trình độ phát triển của lực lượng sản xuất thì thúc đẩy phát triển kinh tế
nhanh, bền vững và ngược lại thì kìm hãm sự phát triển kinh tế.
Ba là, kiến trúc thượng tầng: Tuy là quan hệ phát sinh, nhưng kiến trúc
thượng tầng có tác động trở lại đối với sự phát triển kinh tế, hoặc thúc đẩy sự
phát triển kinh tế hoặc kìm hãm sự phát triển kinh tế. Trong kiến trúc thượng
tầng ảnh hưởng sâu sắc nhất là chính trị.
Tăng trưởng và phát triển kinh tế là hai thuật ngữ khác nhau nhưng luôn
có mối quan hệ chặt chẽ với nhau. Tăng trưởng kinh tế chưa phải là phát triển
kinh tế, nhưng tăng trưởng kinh tế là yểu tổ cơ bản nhất của phát triển kinh tế.
Nếu không có tăng trưởng kinh tế thì sẽ không có phát triển kinh tế. Phát triển
kinh tế bao hàm trong đó có tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững hơn. Bì
vậy các chuyên gia của WB cho rằng: “Tăng trưởng chưa phải là phát triển,
song Tăng trưởng lại là một cách cơ bản để có phát triển và không thể nói
Phát triển kinh tế mà trong đó lại không có Tăng trưởng kinh tế.”
II. SỰ HÌNH THÀNH, PHÁT TRIỂN CỦA CÁC LÝ THUYẾT
TĂNG TRƯỞNG VÀ PHÁT TRIỂN KINH TẾ:
Lịch sử hình thành và phát triển các lý thuyết tăng trưởng và phát triển kinh
tế đến nay đã trãi qua 4 giai đoạn phát triển, tương ứng với 4 giai đoạn này
là 4 lý thuyết sau:
Giai đoạn một: Từ TK XVIII đến thập kỷ 50 của TK XX, giai đoạn này là
sự thống trị của thuyết “Tích lũy tư sản” với mô hình tăng trưởng cổ điển của
A.Smith và mô hình của Harod – Domar.
Giai đoạn hai: Từ cuối những năm 50 đến đầu những năm 60 của TK XX.
Giai đoạn này là sự thống trị của thuyết “Kỹ trị” với mô hình tăng trưởng của
Robert Solow va Danison.
Trang 4
Giai đoạn ba: Cuối những năm 60 đến cuối những năm 70 của thế kỷ XX,
giai đoạn này là sự hình thành của thuyết “Tư bản nhân lực” với mô hình tăng
trưởng của Theodore Schultz.
Giai đoạn bốn: từ đầu những năm 80 của thế kỷ đến nay. Giai đoạn này là
sự thống trị của thuyết “Thu nhập tăng dần” còn gọi là thuyết “Tăng trưởng
mới” với mô hình tăng trưởng của Romo Rucas và Scost.
Nhìn về xu hướng phát triển thì thuyết “Tích lũy tư bản” có xu hướng ngày
càng giảm hiệu lực; thuyết “Kỹ trị” ngày càng có ảnh hưởng; thuyết “Tư bản
nhân lực” dần dần thâm nhập và hòa tan vào các lý thuyết khác; còn thuyết
“Tăng trưởng mới” của thu nhập tăng dần với việc nhấn mạnh tri thức đặc thù
và sự tích lũy tư bản nhân lực chuyên môn hóa đang dần chiếm ưu thế và trở
thành dòng chính trong lý luận về tăng trưởng kinh tể.
III. MỘT SỐ LÝ THUYẾT TĂNG TRƯỞNG VÀ PHÁT TRIỂN
KINH TẾ ĐỐI VỚI CÁC NƯỚC ĐANG PHÁT TRIỂN:
1. Lý thuyết cất cánh của W.W.Rostow:
Lý thuyết này do nhà kinh tế học, giáo sư Walter Wiliam Rostow (người
Mỹ) đưa ra. Lý thuyết cất cánh được trình bày trong tác phẩm “Các giai
đoạn tăng trưởng kinh tế” (The Stages of Economic growth – 1961) nhằm
nhấn mạnh các giai đoạn tăng trưởng kinh tế của một quốc gia. Theo ông,
quá trình tăng trưởng kinh tế phải trải qua năm giai đoạn:
a. Giai đoạn xã hội truyền thống:
Ở giai đoạn này năng suất lao động thấp do lao động chủ yếu bằng công cụ
thủ công lạc hậu, vật chất thiếu thốn; hoạt động xã hội kém linh hoạt; nông
nghiệp giữ vị trí thống trị, sản xuất mang nặng tính tự cung, tự cấp; nền sản
xuất xã hội kém phát triển.
b. Giai đoạn chuẩn bị cất cánh:
Trong giai đoạn này tầng lớp chủ xí nghiệp có đủ khả năng thực hiện đổi
mới, phát triển cơ cấu hạ tầng, đặc biệt là giao thông; xuất hiện các nhân tố
tăng trưởng và một số khu vự có tác động thúc đẩy nền kinh tế như các
hoạt động: ngân hàng, tài chính, tín dụng phát triển, hoạt động xuất nhập
khẩu được tăng cường; vốn, công nghẹ gia tăng v.v…
Trang 5
c.Giai đoạn cất cánh:
Đây là giai đoạn quyết định, giống như một máy bay chỉ có thể bay được
sau khi đạt đến một tốc độ giới hạn. Ở giai đoạn này, những cản trở đối với
sự tăng trưởng bền vững cuối cùng được khắc phục. Theo W.W.Rostow, để
đạt tới giai đoạn này phải có ba điều kiện:
- Tỷ lệ đầu tư tăng lên 5 – 10% thu nhập quốc dân thuần túy (NNP).
- Phải xây dựng được những lĩnh vực công nghiệp có khả năng phát triển
nhanh, có hiệu quả, đóng vai trò như “lĩnh vực đầu tàu”. Một khi “lĩnh
vực đầu tàu” này tăng nhanh thì quá trình tăng trưởng tự xuất hiện. Tăng
trưởng đem lại lợi nhuận; lợi nhuận được tái đầu tư; tư bản, năng suất và
thu nhập tính theo đầu người tăng vọt.
- Phải xây dựng được bộ máy chính trị - xã hội, tạo điều kiện phát huy
năng lực của các khu vực hiện đại, tăng cường kinh tế đối ngoại. Muốn
vậy phải thay giới lãnh đạo bảo thủ bằng những người cầm quyền tiến
bộ biết sử dung kỹ thuật và tăng cường quan hệ quốc tế, giai đoạn này
kéo dài khoảng 20 – 30 năm.
d. Giai đoạn chín muồi về kinh tế:
Giai đoạn này được đặc trưng bởi mức tăng phần dành cho đầu tư trong sản
phẩm quốc dân từ 10% – 20% thu nhập quốc dân thuần túy (NNP). Trong
giai đoạn này, xuất hiện nhiều ngành công nghiệp mới hiện đại như luyện
kim, hóa chất, điện. Cơ cấu xã hội biến đổi, các chủ doanh nghiệp tham gia
vào bộ máy lãnh đạo đất nước, đời sống tinh thần của dân chúng được
nâng lên, giai đoạn này kéo dài khoảng 60 năm.
e. Giai đoạn kỷ nguyên tiêu dùng cao:
Đây là giai đoạn quốc tế gia thịnh vượng, xã hội hóa sản xuất hàng loạt
hàng tiêu dùng và dịch vụ tinh vi, dân cư giàu có, thu nhập bình quân đầu
người tăng cao. Theo W.W.Rostow thì nước Mỹ cần khoảng 100 năm để
chuyển từ giai đoạn trưởng thành sang giai đoạn cuối cùng này.
*Hạn chế của Rostow:
-Tăng trưởng là quá trình liên tục chứ không phải đứt đoạn nên không thể
phân chia thành những giai đoạn chính xác như vậy. Mặt khác, tăng trưởng và
phát triển ở một số nước không nhất thiết phải giống phân chia 5 giai đoạn
như trên. Câu hỏi đặt ra là :”Tại sao cất cánh lại xảy ra ở nước này mà không
xảy ra ở nước khác ?”, lý thuyết chưa giải thích được điều đó.
- Cách tiếp cận không lấy tính đặc thù của mỗi nước làm điểm xuất phát.
Trang 6
*Nhận xét: Mô hình của Rostow mặc dù có nhiều hạn chế về cơ sở của sự
phân đoạn trong phát triển kinh tế cũng như sự nhất quán về đặc trưng của
mỗi giai đoạn so với thực tế, nhưng đứng trên góc độ mối quan hệ giữa sự
chuyển dịch cơ cấu với quá trình phát triển thì mô hình đã chỉ ra 1 sự lựa chọn
hợp lý về dạng cơ cấu ngành tương ứng với mỗi giai đoạn phát triển nhất định
của mỗi quốc gia.
2. Lý thuyết về “cái vòng luẩn quẩn” và “cú huých” từ bên ngoài:
- Samuellson cho rằng 1 quốc gia muốn đạt được tới sự tăng trưởng &
phát triển cần phải có 4 nhân tố: nhân lực, tài nguyên, tư sản, kĩ thuật.
Trong điều kiện cụ thể của các quốc gia nghèo thi cả 4 nhân tố này đều
ở trong tình trạng khan hiếm & chất lượng thấp.
Về nhân lực: Ở các nước nghèo, tuổi thọ trung bình thấp, tỉ lệ người
biết chữ thấp, mức sống thấp, chỉ số HDI thấp. Lao động tập trung quá
nhiều ở trong ngành nông nghiệp, tình trạng thất nghiệp trá hình cao. Vì
vậy, những nước này cần phải đầu tư cho hệ thống y tế giáo dục, đa dạng
hoá việc làm ở nông thôn để khắc phục tình trạng thất nghiệp trá hình.
Về tài nguyên: Ở các nước nghèo, tài nguyên cũng nghèo, lại phân chia
cho một số dân đông đúc, khả năng phát huy được hiệu quả kinh tế của tài
nguyên là rất thấp. Tài nguyên quan trọng nhất đối với những nước này là
tài nguyên đất nông nghiệp. Vì vậy, cần có chế độ canh tác & sử dụng hợp
lí đất đai. Phải có đầu tư nước ngoài để khai thác những nguồn tài nguyên
tiềm năng.
Về tư bản: Nhìn chung, các nước nghèo ít tư bản. Muốn có tăng trưởng
thì phải có đầu tư, muốn có đầu tư phải có tư bản. Để đáp ứng những nhu
cầu về vốn đầu tư thì trước đây các nước nghèo thường đi vay. Nhưng
trong điều kiện hiện tại thì hầu hết các nước nghèo đều là những con nợ
khổng lồ, khả năng vay vốn là khó khăn. Để đáp ứng nhu cầu đầu tư, các
nước nghèo chỉ còn 1 giải pháp là thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài
(FDI).
Về kĩ thuật: Các nước nghèo cũng ở trong tình trạng lạc hậu về kĩ thuật,
nhưng lại có lợi thế của 1 nước đi sau. Nên có thể tranh thủ thành tựu của
các nước đi trước để tìm được những cơ hội đi tắt, đón đầu.
Trang 7
Samuellson cho rằng các quốc gia này đang ở trong cái vòng luẩn quẩn:
Tiết kiệm & đầu tư thấp, tốc độ tích lũy vốn thấp, năng suất thấp, thu nhập
bình quân thấp, tiết kiệm & đầu tư thấp Các nước nghèo không thể tự
thoát ra khỏi cái vòng luẩn quẩn này, phải có 1 cú huých từ bên ngoài. Cú
huých có tính đột phá này là cú huých đầu tư FDI. Điều này có nghĩa là
phải có đầu tư lớn của nước ngoài vào các nước đang phát triển. Muốn vậy,
các nước này phải tạo ra các điều kiện thuận lợi nhằm kích thích tính tích
cực đầu tư của tư bản nước ngoài.
3.Lý thuyết về mô hình kinh tế nhị nguyên của Athur Lewis:
- Lý thuyết này do nhà kinh tế học Jamaica, Athur Lewis đưa ra. Sau đó
được John Fei và Gustav Ranis áp dụng vào phân tích quá trình tăng trưởng
ở các nước đang phát triển.
- Tư tưởng cơ bản: chuyển số lao động dư thừa từ nông nghiệp sang công
nghiệp và các ngành hiện đại do hệ thống tư bản nước ngoài đầu tư vào các
nước lạc hậu.
- Kết quả: tạo điều kiện phát triển một số ngành mới và làm nền kinh tế
phát triển.
- Thực tiễn cho thấy: số lao động dư thừa từ nông nghiệp và các ngành
khác có năng suất giới hạn bằng 0 (do không có việc làm => không có tiền
lương và thu nhập). Khi đó các doanh nghiệp nước ngoài đầu tư vào sẽ có
được nguồn cung sức lao động và chỉ trả lương theo nguyên tắc năng suất
giới hạn nên sẽ thu được lợi nhuận cao và tiếp tục tái sản xuất mở rộng.
Việc chuyển lao động từ khu vực nông nghiệp sang công nghiệp có 2 tác
dụng:
Trang 8
Chuyển bớt lao động nông nghiệp sang công nghiệp,chỉ để lại số lao
động đủ để tạo sản lượng cố định => nâng cao sản lượng theo đầu người.
Tăng lợi nhuận trong công nghiệp,tạo điều kiện nâng cao sức tăng
trưởng và phát triển kinh tế.
Quá trình chuyển dịch lao động từ nông nghiệp sang công nghiệp do
tác động của tiền lương
Chú thích:
OV1: mức lương trung bình.
OL1: mức sử dụng lao động.
OV1PL1: tổng số tiền lương.
V1DP: lợi nhuận của nhà tư bản.
OV2: mức lương trong khu vực truyền thống (nông thôn)
Giải thích:
OV2 < OV1,do chi phí sản xuất, giá cả sinh hoạt cao hơn, do yếu tố tâm lý
nên có tình trạng di dân từ nông nghiệp sang công nghiệp.
Nhờ tích lũy tư bản và nâng cao năng suất lao động nên đường DD chuyển
thành D’D’,làm mức lương OV1 không đổi,mức lao động chuyển sang
OL2.
Lúc này tổng tiền lương là OV1P’L2, còn lợi nhuận của nhà tư bản là
V1D’P’.
Trang 9
DD: Đường giới hạn khả năng sản
xuất
D
D’
L
P P’
L2
DL1
O
D
V1
V2
Tiền
lương
OL: Lao động
OV: Tiền lương
Lao động
=> Nếu năng suất giới hạn tiếp tục tăng lên,tiền lương vẫn giữ nguyên mức
OV, mà nguồn lao động dồi dào thì nông nghiệp các nước đang phát triển
sẽ có mức tăng trưởng không giới hạn.
*Hạn chế của Lewis:
-Mô hình giả định rằng tỷ lệ lao động thu hút từ khu vực nông nghiệp sang
khu vực công nghiệp tương ứng với tỷ lệ vốn tích luỹ của khu vực này.
Trên thực tế, khi khu vực công nghiệp thu được lợi nhuận, vốn tích luỹ có
thể được thu hút và sử dụng vào những ngành sản xuất sản phẩm có dung
lượng vốn caoý nghĩa của việc giải quyết việc làm cho khu vực nông
nghiệp sẽ không còn nữa. Trong điều kiện nền kinh tế mở, sẽ không có gì
đảm bảo rằng nhà tư bản công nghiệp khi thu được lợi nhuận chỉ có tái đầu
tư trong nước, họ phải tìm nơi đầu tư có lợi nhất và đó rất có thể là đầu tư
ra nước ngoài, nơi có giá đầu tư rẻ hơn.
-Mô hình đã giả thiết nông thôn là khu vực dư thừa lao động còn thành thị
thì không. Trên thực tế, thất nghiệp vẫn có thể xảy ra ở khu vực thành thị.
Mặt khác, khu vực nông thôn cũng có thể tự giải quyết tình trạng dư thừa
lao động thông qua các hình thức tự tạo việc làm tại chỗ mà không cần phải
chuyển ra thành phố.
-Lewis đã giả định rằng khu vực công nghiệp không phải tăng lương cho số
lao động từ nông thôn chuyển sang khi ở đây còn dư thừa lao động, vì khi
vực công nghiệp đòi hỏi tay nghề lao động ngày càng cao hơn nên vẫn phải
trả một mức tiền công lao động cao hơn. Một khía cạnh khác, ở một số
nước hoạt động của tổ chức công đoàn rất mạnh nên họ có thể tạo ra những
áp lực đáng kể để khu vực công nghiệp phải tăng lương cho người lao
động.
3. Lý thuyết tăng trưởng kinh tế ở các nước Châu Á gió mùa:
Lý thuyết này do nhà kinh tế học Nhật Bản là Harry Toshima đưa ra.
Ông phê phán lý thuyết tăng trưởng của Athur Lewis không thực tế với các
nước Châu Á gió mùa,vì ở những nước này,nền nông nghiệp lúa nước vẫn
thiếu lao động vào cao điểm của thời vụ, chỉ thừa trong những ngày “nông
nhàn”.
Vì vậy, ông đã đưa ra mô hình mới là : giữ lại số lao động trong nông
nghiệp, tạo thêm nhiều hoạt động sản xuất ở những tháng nhàn rỗi bằng
cách tăng vụ, đa dạng hóa cây trồng, chăn nuôi gia súc và gia cầm, mở
them ngành sản xuất cần nhiều lao động => có việc làm đầy đủ trong
Trang 10
những ngày “nông nhàn” => thu nhập nông dân tăng lên và mở rộng thị
trường cho các ngành dịch vụ và công nghiệp.
Thị trường lao động bị thu hẹp => tiền lương thực tế sẽ tăng lên => các
nông trại, xí nghiệp chuyển sang cơ giới hóa => năng suất lao động tăng
lên => tổng sản phẩm quốc gia và GNP tính theo đầu người cũng tăng lên.
H.Toshima cho rằng: “nông nghiệp hóa” là con đường tốt nhất để phát
triển kinh tế ở các nước Châu Á gió mùa, tiến tới 1 xã hội có cơ cấu kinh tế
công nông nghiệp – dịch vụ.
IV. NHỮNG MÔ HÌNH TRAO ĐỔI QUỐC TẾ:
1/ Mô hình cổ điển của D.Ricardo:
- Đây là mô hình dựa trên nguyên lý lợi thế tương đối của D.Ricardo.
- Theo mô hình này, lao động là nhân tố sản xuất duy nhất, chỉ có 2 hàng
hóa và 2 nước trên thế giới.
- Tỷ lệ giá cả của 2 hàng hóa này do năng suất lao động tương đối, tức là
tỷ lệ năng suất lao động của 1 hàng hóa này so với 1 hàng hóa kia quyết
định.
- Nếu tỷ lệ giá cả của 1 nước này không giống so với nước kia thì trao đổi
giữa 2 nước có thể xảy ra. Nước thứ nhất, xuất khẩu hàng hóa có năng
suất lao động tương đối cao (hàng hóa có lợi thế tương đối) và nhập
khẩu hàng hóa có năng suất lao động tương đối thấp. Nước thứ 2 sẽ
nhập khẩu những hàng hóa xuất khẩu của nước thứ 1 và xuất khẩu
những hàng hóa mà nước thứ 1 nhập khẩu
Ví dụ: Giả định rằng nước ta giao thương với Nhật. Ta có thế mạnh về lúa
gạo, cùng một nguồn lực, diện tích đất mà Nhật chỉ sản xuất được 2 tấn
thóc/1000 ha,trong khi đó Việt nam sản xuất được 3,5 tấn thì Việt Nam cần
tập trung vào sản xuất thóc để trao đổi với Nhật. Trong khi đó, Nhật có thế
mạnh về công nghiệp điện tử, ví dụ như, Nhật chế tạo ô tô mất 3 ngày và
20 nhân công còn Việt Nam mất 15 ngày và 60 nhân công thì Nhật tập
trung vào thế mạnh công nghiệp điện tử để sản xuất trao đổi hàng hóa với
Việt Nam. Việc 2 nước mở cửa giao thương với nhau xét thì thỏa thuận về
2 phương diện này thì 2 bên đều có lợi.
Trang 11
Theo như Ricardo thì mọi nước đều có thể và rất có lợi tham gia vào quá
trình phân công lao động quốc tế . Bởi vì, việc phát triển của ngoại thương
cho phép mở rộng khả năng tiêu dung của 1 nước : chỉ chuyên môn hóa
vào sản xuất một số sản phẩm nhất định và xuất khẩu hàng hóa của mình
để đổi lấy hàng nhập khẩu của các nước khác. Theo ông,những nước có lợi
thế tuyệt đối hoàn toàn hơn các nước khác, hoặc bị kém lợi thế tuyệt đối so
với các nước khác trong sản xuất nhiều sản phẩm, thì vẫn có thể và có lợi
khi tham gia phân công lao động quốc tế.
2/ Mô hình Heckscha Ohlin:
- Lý thuyết này được xây dựng trên 3 giả thuyết cơ bản:
Có 2 nhân tố sản xuất là lao động và tư bản;
Chỉ có 2 hàng hóa và 2 nước trên thế giới;
Kỹ thuật sản xuất của 2 nước khác nhau.
- Theo mô hình này, khi trao đổi xảy ra, thì nước tương đối thừa tư bản sẽ
xuất khẩu sản phẩm cần nhiều tư bản và nước tương đối thừa lao động
sẽ xuất khẩu sản phẩm cần nhiều lao động.
3/ Mô hình khoảng cách kỹ thuật:
- Mô hình này giả định có sự khác nhau rõ rệt về kỹ thuật giữa 2 nước.
- Ví dụ: Một nước nào đó xuất khẩu máy bay, máy tính điện tử…. là do
các công ty ở đó có các kỹ thuật mới mà các công ty nước khác chưa
biết.
- Khoảng cách kỹ thuật này có thể là tạm thời, nhưng cũng có thể là một
thời kỳ tồn tại đáng kể.
V. VẬN DỤNG THỰC TẾ:
1/ Kinh tế Việt Nam:
Năm 2008
• Bối cảnh không thuận lợi: KT thế giới suy giảm, giá dầu mỏ & lương
thực tăng cao, trong nước lạm phát tăng từ quí III năm 2007.
Trang 12
• 2 cuộc khủng hoảng nối tiếp nhau: đầu năm lạm phát cao & bất ổn vĩ
mô trong nước, cuối năm khủng hoảng tài chính toàn cầu.
• Bộ Chính trị, Quốc hội và Chính phủ ban hành nhiều quyết sách, giải
pháp để ổn định và phát triển KT-XH năm 2008: 8 nhóm giải pháp kiềm
chế lạm phát, ổn định KT vĩ mô (4/08), 5 nhóm giải pháp chống suy
thoái (11/08) là chấp nhận ‘‘hy sinh’’ tăng trưởng trong ngắn hạn để giữ
ổn định KT-XH.
• Tăng trưởng GDP: 6,18% (thấp nhất từ năm 2000)
• Nông lâm thủy sản: 4,07%
• Công nghiệp-xây dựng: 6,11%
• Dịch vụ: 7,18%
• Vốn ĐT xã hội: 610,9 ngàn tỉ VND, bằng 41,3% GDP, trong đó
Khu vực Nhà nước chiếm 28,5% (-11,9%)
Khu vực ngoài nhà nước 40,0% (+19,3%)
FDI 31,5% (+48,7%)
• Thương mại quốc tế: XK 62,7 tỉ USD (+29,1%)
NK 80,7 tỉ USD (+28,6%)
• Thâm hụt TM = 14,4% GDP; thâm hụt cán cân vãng lai = 9,5% GDP
• Lạm phát : 20%
• Tỉ lệ thất nghiệp ở đô thị 4,7% (+0,1%); thu nhập thực giảm
6 tháng đầu năm 2009
Suy thoái KT toàn cầu tác động nặng nề tới KT nước ta, đặc biệt tới FDI
và xuất khẩu (2 động lực tăng trưởng)
Mục tiêu tổng quát năm 2009:
Tiếp tục kiềm chế lạm phát, ổn định KT vĩ mô, duy trì tốc độ tăng
trưởng hợp lý, bền vững, chủ động ngăn ngừa suy giảm, bảo đảm an
sinh xã hội
Đẩy mạnh hợp tác và hội nhập KT quốc tế một cách chủ động và hiệu
quả;
Giữ vững ổn định chính trị, quốc phòng, an ninh
Tạo điều kiện thực hiện kế hoạch 5 năm 2006-2010
Chính phủ đẩy mạnh thực hiện gói kích cầu
Tăng trưởng GDP: 3,9% (so với 6 tháng đầu năm 2008)
• Nông lâm thủy sản: 1,25%
• Công nghiệp-xây dựng: 3,48%
Trang 13
• Dịch vụ: 5,5 %
Vốn ĐT xã hội: 332,6 ngàn tỉ VND, tăng 18,1% so với 08, trong đó
• Khu vực Nhà nước chiếm 43,9% (+33,4%)
• Khu vực ngoài nhà nước 34,1% (+37,4%)
• FDI 22,0% (-18,4%)
Thương mại quốc tế: XK 27,6 tỉ USD (-10,1%)
NK 29,7 tỉ USD (-34,1%)
Thâm hụt TM =2,1 tỉ USD; thâm hụt cán cân vãng lai = 9,5% GDP
CPI: +10,27%
Thất nghiệp: khoảng 100.000 người mất việc làm
2/ Khái quát kinh tế đối ngoại Việt Nam, tình hình kinh tế đối ngoại Việt
Nam:
Hơn một thập kỷ qua, Việt Nam đã lần lượt gia nhập các tổ chức kinh tế quốc
tế và khu vực: khôi phục quan hệ bình thường với Ngân hàng thế giới (WB),
Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF) và Ngân hàng phát triển châu á (ADB), trở thành
thành viên của ASEAN, APEC, thực hiện Chưng trình CEPT, đồng sáng lập
ASEM.
Trong quan hệ kinh tế - thưng mại song phưng đến nay, Việt Nam đã ký 81
hiệp định thưng mại và đầu tư song phương, gần 40 hiệp định khuyến khích
và bảo hộ đầu tư với các nước và vùng lãnh thổ; trong đó đàm phán ký kết và
phê chuẩn Hiệp định Thương mại Việt Nam - Hoa kỳ là một nội dung lớn.
I/ Hội nhập kinh tế quốc tế đã đạt được những kết quả đáng khích lệ:
1.Tạo điều kiện cho Việt Nam nâng cao vị thế chính trị, ngoại giao và kinh tế
trên trường quốc tế, tránh được tình trạng phân biệt đối xử, tạo cơ sở ổn định
và thuận lợi cho các hoạt động kinh tế đối ngoại.
2. Góp phần mở rộng thị trường xuất nhập khẩu: Do hội nhập, năm 1990, kim
ngạch xuất khẩu của Việt Nam mới chỉ đạt 2,4 tỷ USD và kim ngạch nhập
khẩu đạt 2,75 tỷ USD thì tới năm 2001, con số này đã đạt tới 15,1 tỷ USD
xuất khẩu và 16 tỷ USD nhập khẩu Thị trường không ngừng được mở rộng, từ
chỗ chỉ có quan hệ thương mại với các nước Đông Âu là chính, đến nay Việt
Nam đã có quan hệ kinh tế thương mại với 176 nước và vùng lãnh thổ…
3. Tăng cường thu hút đầu tư nước ngoài và viện trợ phát triển (ODA): có trên
70 nước và vùng lãnh thổ đầu tư vào Việt Nam. Tổng số vốn đầu tư nước
ngoài cam kết trong giai đoạn 1998 - 2001 đạt trên 40 tỷ USD, trong đó số
Trang 14
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét