Theo nguyên tắc hoạt động của ngân hàng và các tổ chức tín dụng khác
mà hoạt động thường xuyên và chủ yếu của chúng là kinh doanh tiền tệ là lãi
suất cho vay bao giờ cũng phải lớn hơn lãi suất huy động để đảm bảo ngân
hàng có thể bù đắp được các chi phí hoạt động đã bỏ ra và có lợi nhuân.
Thông thường, lãi suất cho vay và lãi suất huy động có mối quan hệ được xác
định như sau:
Lãi suất
cho vay
=
Lãi suất
huy động
+ Chi phí +
Rủi ro tối
thiểu
+ Lợi nhuận
Theo giá trị thực:
Hàng ngày chúng ta thường gặp các loại lãi suất được công bố trên các
phương tiện thông tin đại chúng và nhiều cá nhân, doanh nghiệp, tổ chức sử
dụng một số loại lãi suất đó để làm đơn vị tính toán trong các hoạt động của
mình. Tuy nhiên, hầu hết các loại lãi suất này là lãi suất chưa tính đến yếu tố
lạm phát, và để xác định được giá trị thực của các loại lãi suất này, người ta
phải tính thêm một yếu tố đó là tỷ lệ lạm phát dự tính.
-Lãi suất danh nghĩa: là loại lãi suất được xác định cho mỗi kỳ hạn gửi
hoặc vay, thể hiện trên quy ước giấy tờ được thoả thuận trước.
-Lãi suất thực: là loại lãi suất xác định giá trị thực của các khoản lãi
được trả hoặc thu được.
5
Lãi suất Lãi suất Tỷ lệ
thực = danh nghĩa - lạm phát
Sự phân biệt giữa lãi suất thực và lãi suất danh nghĩa có ý nghĩa rất quan
trọng, đối với người có tiền, nhờ đoán biết được lãi suất thực mà họ quyết
định nên gửi tiền vào ngân hàng hay mang đi kinh doanh trực tiếp. Đối với
người cần vốn, nếu dự đoán được tương lai có lạm phát và trong suốt thời
gian đó lãi suất cho vay không đổi hoặc có tăng nhưng tốc độ tăng không
bằng lạm phát tăng thì họ có thể yên tâm vay để kinh doanh mà không sợ lỗ vì
trượt giá khi trả nợ.
Theo phương pháp tính lãi:
-Lãi suất đơn: là tỷ lệ theo năm, tháng, ngày của số tiền lãi so với số
tiền vay ban đầu không gộp lãi vào tiền vay ban đầu để tính lãi thời hạn kế
tiếp.
-Lãi suất kép: là tỷ lệ theo năm, tháng, ngày của số tiền lãi so với số
tiền vay, số tiền vay này tăng lên do có gộp lãi qua từng thời kỳ cho vay (lãi
mẹ đẻ lãi con)
Theo loại tiền
-Lãi suất nội tệ: là loại lãi suất áp dụng để tính toán cho đồng nội tệ (kể cả lãi
suất huy động và lãi suất cho vay)
-Lãi suất ngoại tệ: là lãi suất tính toán áp dụng cho đồng ngoại tệ
. Theo độ dài thời gian:
Theo cách phân loại này, cả lãi suất huy động và lãi suất cho vay, thời gian
càng dài thì lãi suất càng cao.
Cơ sở của cơ chế lãi suất này là ở chỗ thời gian thuê vốn (cả huy động và
cho vay) càng dài thì lợi nhuận làm ra càng nhiều, đồng thời tính rủi ro mất
vốn cũng càng cao.
6
-Lãi suất ngắn hạn: là loại lãi suất áp dụng cho các khoản huy động và
khoản vay ngắn hạn, có thời hạn dưới 1 năm.
-Lãi suất trung hạn: là loại lãi suất áp dụng cho các khoản huy động và
khoản vay có thời hạn từ 1 năm đến 5 năm.
-Lãi suất dài hạn: là loại lãi suất áp dụng cho các khoản huy động và
khoản cho vay có thời hạn trên 5 năm.
Lãi suất hoàn vốn
Đối với các khoản tín dụng mà việc trả vốn và lãi theo định kỳ hoặc trả
một khoản cố định theo định kỳ, chẳng hạn trả cố định hoặc trái phiếu coupon
thì người ta áp dụng một loại lãi suất gọi là lãi suất hoàn vốn. Đây là lãi suất
làm cân bằng giá trị hiện tại của tiền thanh toán nhận được từ một khoản tín
dụng với giá trị hôm nay của tín dụng đó. Một trái phiếu cũng là một khoản
tín dụng, vì vậy lãi suất hoàn vốn của nó là một tỷ lệ nào đó làm cho giá trị
hiện tại của trái phiếu trên thị trường.
Như vậy, đo lường lãi suất hoàn vốn là một phép tính ngược từ việc chúng
ta cân bằng giá trị hiện tại của số vốn đã đầu tư (cho vay) với giá trị hôm nay
của số vốn đó.
3. Phân biệt lãi suất thực và lãi suất danh nghĩa
Trên thực tế, những khoản thu nhập bằng tiền hay thu nhập danh nghĩa
thường không phản ánh đúng giá trị thực của chính khoản thu nhập đó. Tỷ lệ
lạm phát hay tỷ lệ trượt giá của đồng tiền trong một thời gian nhất định luôn
làm cho giá trị thực trở nên nhỏ hơn giá trị danh nghĩa.Vì vậy lãi suất thực
luôn nhỏ hơn lãi suất danh nghĩa bởi tỷ lệ lạm phát nói trên.
Thông thường trong những điều kiện tỷ lệ lạm phát (ig) không lớn hơn
10% thì lãi suất thực và lãi suất danh nghĩa có lien hệ với nhau qua công thức
đơn giản:
ir = in - ii
7
Trong đó, ir,in,ii lần lượt là lãi suất thực, lãi suất danh nghĩa và tỷ lệ
lạm phát.
Tuy nhiên nếu tỷ lệ lạm phát ii cao hơn 10% ví dụ là 35%; lãi suất
danh nghĩa, ví dụ là 114% thì lãi suất thực không thể tính như trên mà phải
tính theo công thức:
in – ii
ir = hay ir = (144 – 35) / (35 + 100)
ii + 1
Trong ví dụ này lãi suất thực xấp xỉ bằng 80,7 % và điều này cũng
phản ánh đúng một xu hướng thực tế: tỷ lệ lạm phát càng cao lãi suất thực
càng thấp.
4. Cấu trúc kỳ hạn và cấu trúc rủi ro của lãi suất
4.1 Cấu trúc rủi ro của lãi suất
Có rất nhiều trường phái và lý thuyết khác nhau nghiên cứu về cấu
trúc rủi ro của lãi suất hay là mối quan hệ giữa lãi suất và mức độ rủi ro của
một món vay hay một dự án đầu tư. Và vấn đề được coi là thống nhất chung
của tất cả các trường phái đó là mức độ rủi ro của món vay càng cao lãi suất
của món vay đó càng cao.
4.2 Cấu trúc kỳ hạn của lãi suất
Cấu trúc kỳ hạn của lãi suất cũng phụ thuộc vào rất nhiều lý thuyết: lý
thuyết về dự đoán về cấu trúc thời hạn, lý thuyết về tiền thưởng rủi ro và lý
thuyết về phân đoạn thị trường. Tuy vậy có thể thấy rõ rang từ những kết quả
phân tích mang tính quy luật và những bằng chứng thực nghiệm rằng: một
món vay có thời hạn càng dài thì lãi suất càng cao.
5. Các nhân tố ảnh hưởng tới lãi suất
5.1.Mức cung cầu tiền tệ
8
-Cung tiền tệ là tổng thể tiền tệ được sử dụng để giao dịch thanh toán
trên thị trường. Các nhà kinh tế đã định nghĩa M là tiền giao dịch bao gồm:
M1 là tổng số tiền kim khí và tiền giấy lưu thông bên ngoài ngân hàng cộng
với tiền gửi ngân hàng có thể rút ra bằng séc và định nghĩa rộng hơn (M2) bao
gồm những tài sản như tài khoản tiền gửi tiết kiệm ngoài tiền kim khí, tiền
giấy và tiền gửi ngân hàng có thể rút ra bằng séc.
Quyền kiểm soát mức cung tiền tệ được dành cho Chính phủ, bởi vì hạn chế
mức cung tiền tệ là điều cần thiết để tiền có giá trị.
-Cầu tiền tệ là nhu cầu về tiền của cá nhân, đơn vị, tổ chức để làm
phương tiện giao dịch, trao đổi, mua bán hàng hoá, dịch vụ…
Đường thẳng đứng S biểu thị ngân hàng trung ương giữ cung cấp tiền
tệ ở một lượng định trước gọi là M. Đường cong về mức cung tiền tệ được vẽ
thẳng đứng vì việc cung cấp tiền tệ được định ra ở M cho mọi lãi suất.
(Hình 1)
9
Đường thẳng đứng S biểu thị ngân hàng trung ương giữ cung cấp tiền
tệ ở một lượng định trước gọi là M. Đường cong về mức cung tiền tệ được vẽ
thẳng đứng vì việc cung cấp tiền tệ được định ra ở M cho mọi lãi suất.
Công chúng (các gia đình và các hàng kinh doanh) muốn giữ lượng tiền M1
khác nhau ở những mức lãi suất khác nhau, lãi suất thấp thì số tiền dôi ra lớn
hơn.
Giao điểm giữa cung và cầu trên đồ thị xác định lãi suất cân bằng.
Đây là mức lãi suất ở điểm số lượng tiền do ngân hàng trung ương đề ra làm
mục tiêu phù hợp với số tiền mà công chúng muốn nắm giữ.
Sự thay đổi cung cầu tiền tệ sẽ ảnh hưởng đến lãi suất.
*Chính phủ thực hiện chính sách thắt chặt tiền tệ: Mức cung tiền tệ sẽ
giảm đi, đường S dịch chuyển sang trái thành S’, lãi suất tăng. Trên đồ thị lãi
suất chuyển từ i sang iA.
Lãi suất tăng, mức đầu tư sẽ giảm, mức cầu tiền tệ giảm, các nhà doanh
nghiệp và các gia đình cắt giảm lượng tiền mặt và tài khoản séc của họ, đường
D dịch chuyển về bên trái tạo thành D’. Giao điểm giữa D’ và S’ là A’ với
mức lãi suất cân bằng mới i’A.(hình 2)
Hình 2
10
*Chính phủ thực hiện chính sách nới lỏng tiền tệ: Mức cung tiền tệ sẽ
tăng lên, lãi suất có xu hướng giảm xuống. Tín dụng trở nên dồi dào hơn, lãi
suất trên đồ thị chuyển từ I sang iB. Kết quả là việc tiến hành các dự án đầu tư
mới trở nên có lợi hơn, số tiền chi tiêu về nhà máy, thiết bị, kho hàng tăng
lên, người tiêu dùng có khuynh hướng mua nhiều hàng hơn…Vón đầu tư
tăng, tổng mức cầu tăng lên, dịch đường D sang phải tạo ra thăng bằng mới
trên thị trường. (Hình 3)
Hình 3
5.2 Lạm phát kỳ vọng
Khi mức lạm phát được dự đoán sẽ tăng lên trong một thời kỳ nào đó, lãi
suất sẽ có xu hướng tăng. Thứ nhất, xuất phát từ mối quan hệ giữa lãi suất
thực tế và lãi suất danh nghĩa cho thấy, để duy trì lãi suất thực không đổi, tỷ lệ
lạm phát đòi hỏi lãi suất danh nghĩa phải tăng lên tương ứng. Thứ hai, công
chúng dự đoán lạm phát tăng sẽ dành phần tiết kiệm của mình cho việc dự trữ
hang hoá hoặc những dạng thức tài sản phi tài chính khác như vàng, ngoại tệ
mạnh hoặc đầu tư vốn ra nước ngoài. Tất cả các điều này làm giảm cung quỹ
cho vay và gây áp lực tăng lãi suất của các nhà băng cũng như trên thị trường.
11
5.3.Sự ổn định của nền kinh tế
-Ảnh hưởng đến cung tiền vay: khi nền kinh tế ổn định và phát triển,
của cải tăng lên, công chúng chỉ muốn giữ một số tiền nhất định đủ cho nhu
cầu sử dụng, họ muốn đầu tư vào những tài sản thay thế có lợi tức dự tính
cao: đầu tư vào các trái khoán công ty. Bởi vì khi nền kinh tế ổn định, thị
trường trái khoán trở nên ổn định hơn, rủi ro trái khoán giảm, trái khoán trở
thành một tài sản hấp dẫn hơn, vì vậy cung tiền vay tăng lên, đường cung dịch
chuyển về bên phải, lãi suất có xu hướng giảm.
-Ảnh hưởng đến cầu tiền vay: khi nền kinh tế đang phát triển nhanh
nhất là trong giai đoạn phát đạt của một chu kỳ kinh doanh, các công ty càng
có nhiều ý định vay vốn và tăng số dư nợ nhằm tài trợ cho các cuộc đầu tư
được trông đợi là sinh lời. Cầu tiền vay tăng lên, đường cầu dịch chuyển về
bên phải, lãi suất có xu hướng tăng lên.
Khi đường cung và đường cầu tiền vay tăng lên và dịch chuyển về
bên phải, sẽ đạt được một điểm cân bằng mới về bên phải. Tuy nhiên nếu
đường cung dịch chuyển nhiều hơn đường cầu thì lãi suất cân bằng mới có xu
hướng giảm xuống, ngược lại, nếu đường cầu dịch chuyển nhiều hơn thì lãi
suất cân bằng mới tăng lên.
Trong nền kinh tế ổn định và có xu hướng phát triển, nhà nước nên sử dụng
các công cụ lãi suất để tăng vốn đầu tư vào những lĩnh vực cần phát triển cho
sự cân đối của nền kinh tế, đặc biệt từ các nguồn vốn trên thị trường trái
khoán.
5.4 Các chính sách của Nhà nước
*Chính sách tài chính:
Khi nhà nước thực hiện một chính sách tài chính mở rộng (tăng chi tiêu
của Chính phủ và giảm thuế) sẽ ảnh hưởng đến thăng bằng của thị trường
hàng hóa và thị trường tiền tệ, từ đó ảnh hưởng đến lãi suất.
12
Khi chi tiêu của chính phủ tăng trực tiếp làm tăng tổng cầu, đường cầu
dịch chuyển về bên phải, khi chính phủ giảm thuế, làm cho nhiều thu nhập
hơn được sẵn sang để chi tiêu và làm tăng tổng sản phẩm bằng cách tăng chi
tiêu, tiêu dùng. Mức cao hơn của tổng sản phẩm làm tăng lượng cầu tiền tệ,
đường cầu dịch chuyển về bên phải, lãi suất tăng.
Ngoài ra, thuế còn có thể tác động đến mức sản lượng tiềm năng, chẳng
hạn việc giảm thuế đánh vào thu nhập từ đầu tư làm cho các ngành tăng đầu
tư vào máy móc, nhà máy, tổng sản phẩm tiềm năng được tăng lên, tăng
lượng cầu tiền tệ, đường cầu dịch chuyển về bên phải, lãi suất tăng lên.
*Chính sách tiền tệ: với tư cách ngân hàng của các ngân hàng, ngân hàng
trung ương thực hiện vai trò chỉ huy đối với toàn bộ hệ thống ngân hàng của
một quốc gia. Với công cụ lãi suất, ngân hàng trung ương có thể điều tiết hoạt
động của nền kinh tế vĩ mô bằng các phương pháp sau:
-Ngân hàng có thể quy định lãi suất cho thị trường, chủ động điều
chỉnh lãi suất để điều chỉnh tổng phương tiện thanh toán trong nền kinh tế,
hạn chế hoặc mở rộng hoạt động tín dụng nhằm thực hiện được mục tiêu giảm
lạm phát và tăng trưởng kinh tế theo từng thời kỳ.
-Ngân hàng trung ương thực hiện chính sách lãi suất tái chiết khấu:
Thông qua việc điều chỉnh lãi suất chiết khấu, ngân hàng trung ương có thể
tác động gián tiếp vào lãi suất thị trường. Một lãi suất chiết khấu cao hay thấp
sẽ làm thay đổi lượng vay của ngân hàng, tức lượng tiền cung ứng của ngân
hàng cho nền kinh tế và cuối cùng sẽ làm thay đổi mức lãi suất thị trường.
-Ngân hàng trung ương thực hiện chính sách thị trường mở: để điều
hòa cung cầu về các chứng phiếu có giá để tác động vào các ngân hàng
thương mại trong việc cung cầu tiền tệ, cung ứng tín dụng, việc làm này cũng
sẽ ảnh hưởng đến sự thay đổi của lãi suất.
-Ngân hàng trung ương tăng hay giảm mức dự trữ bắt buộc: khi đó
cũng ảnh hưởng gián tiếp đến lãi suất trên thị trường.
13
*Chính sách thu nhập: đó là chính sách về giá cả và tiền lương.
Nếu mức giá cả giảm mà cung tiền tệ không thay đổi làm lãi suất giảm.
Ngược lại một mức giá cao hơn làm giảm cung tiền tệ theo giá trị thực tế, làm
tăng lãi suất.
Yếu tố cấu thành quan trọng nhất của chi phí sản xuất là chi phí tiền lương,
khi tiền lương tăng làm chi phí sản xuất tăng, làm giảm lợi nhuận theo đơn vị
sản phẩm tại một mức giá cả, giảm nhu cầu đầu tư, cầu tiền tệ giảm, lãi suất
giảm.
*Chính sách tỷ giá.
Tỷ giá sẽ tác động đến quá trình sản xuất kinh doanh và xuất nhập khẩu
hàng hóa của một nước. Khi nhà nước tăng tỷ giá ngoại tệ sẽ làm tăng giá của
hàng nhập khẩu, dẫn đến tăng chi phí đầu vào của các xí nghiệp, giá hàng hóa
trong nước tăng lên, lợi nhuận giảm, nhu cầu đầu tư giảm, cầu tiền tệ giảm, lãi
suất giảm. Mặt khác, khi tỷ giá ngoại tệ tăng, lượng tiền cung ứng để đảm bảo
cân đối ngoại tệ cần chuyển đổi tăng lên, lãi suất giảm.
Khi tỷ giá ngoại tệ giảm, đồng tiền tăng giá, không kích thích xuất khẩu,
nền công nghiệp trong nước có thể bị sự cạnh tranh của nước ngoài tăng lên,
kích thích nhập khẩu. Lượng tiền tệ tăng do với một tỷ giá thấp, với một
lượng vốn đầu tư nhất định, tài sản đầu tư sẽ nhiều hơn, kích thích đầu tư vào
sản xuất, lãi suất tăng lên.
II. Tỷ suất lợi nhuận vốn đầu tư hay còn gọi là hệ số hoàn vốn
(RR- Rate of return)
1.Khái niệm và công thức tính tỷ suất lợi nhuận vốn đầu tư
Chỉ tiêu tỷ suất lợi nhuận vốn đầu tư tính cho từng năm (RRi) phản ánh
mức lợi nhuận thu được từng năm tính trên một đơn vị vốn đầu tư hoặc phản
ánh mức độ thu hồi vốn đầu tư ban đầu nhờ lợi nhuận thu được hàng
năm.Trước tiên chúng ta tìm hiểu về lợi nhuận thuần.
14
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét