Thứ Hai, 24 tháng 2, 2014

CẢM HỨNG TRIẾT LUẬN VỀCON NGƯỜI TRONG TRUYỆN NGẮN VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 1986- 2000

số phận chẳng ai giống ai, với những biểu hiện sống, những nhu cầu tinh thần và vật chất đa
dạng và luôn thay đổi. [A. II. 30. tr. 219- 220]
Nhận định của Huỳnh Như Phương vừa nhấn lại đặc điểm của văn học hôm nay vừa
tiếp tục khơi thông hướng đi nhân bản của nó: ý hướng đi vào nội tâm để khám phá chiều
sâu tâm linh nhằm nhận di
ện hình ảnh con người đích thực là ý hướng có triển vọng của một
nền văn học dân chủ [A.II.67, tr.16].
Trong “Quan niệm nghệ thuật về con người trong truyện ngắn Việt Nam giai đoạn
1986-2000”, Nguyễn Văn Kha khẳng định: Giữa cuộc sống rộng lớn, giữa các sự kiện, biến
động lịch sử đầy rối rắm và phức tạp, chính đời sống con người, t
ư tưởng, tình cảm và thân
phận của nó là đối tượng trung tâm của văn học [A.I.21, tr.11].
Trong bài Đổi mới văn học vì sự phát triển, nhà nghiên cứu văn học Vũ Tuấn Anh có
nêu nhận định: Với Đổi mới văn học, bằng sự lật trở của tư duy nghệ thuật, mối quan hệ văn
học- hiện thực đã có một sự thay
đổi về chất. Có thể nói, toàn bộ hiện thực đã tràn vào văn
học trong nhịp độ gấp gáp, đến mức xô bồ (…) ở cả phần sáng lẫn phần tối, cả ở lịch sử lẫn
thời khắc hiện tại, cả số phận lịch sử lẫn số phận cá nhân [A.II.3, tr.17].
Tác giả bài viết nói trên khẳng định một cách mạnh mẽ và trực tiếp tính phứ
c tạp ở
phía chiều sâu trong tâm hồn con người, khẳng định một sự tìm tòi nhận thức mới về con
người, đây là cái nhìn nhận chung của nhiều người: Đối tượng nghiên cứu và khám phá của
văn học không chỉ là xã hội mà còn là con người với tất cả sự phức tạp và bí ẩn của nó;
Cũng cần nói đến một phương diện khác, như một yếu tố thực sự
mới mẻ mười năm qua: cố
gắng khám phá cái thế giới bí ẩn, khuất lấp, đầy bất trắc và bất thường bên trong mỗi con
người, bên trong bản- thể Người [A.II.3, tr.15].
Nhìn lại Những thành tựu của truyện ngắn sau năm 1975, Bích Thu cũng thừa nhận
có một sự nhận thức mới về con người trong truyện ngắn: Hướng tới hiện thực về con người,
thông qua từng số phận cá nhân, các nhà văn đã xới lên những vấn đề nhức nhối, bức xúc
của con người trong hiện thực đương đại. Con người trong truyện ngắn hôm nay không còn
là “những đời người rất nhạt” vì “không có những bất ngờ, may rủi” mà là những con
người “đầy những vết dập xóa trên thân thể, trong tâm hồn”[A.II.80, tr. 35].
Nhận định của Bích Thu như một nét nhấn cần thiết trong nhữ
ng nhận định cách
nhìn mới về con người trong văn xuôi nói chung, truyện ngắn nói riêng: Trong thực tiễn sáng
tác từ sau 1975 đến nay, cảm hứng sự thật về hiện thực và con người trở thành cảm hứng
bao trùm đối với các nhà văn. Văn xuôi thế sự, đời tư không chỉ bộc lộ những nếm trải, suy
tư, nghiền ngẫm mà còn phơi bày, phanh phui các sự vật, hiện tượng để đi đến tận cùng cốt
lõi của nó.[A.II.80, tr.25]
Trong một bài viết ngắn Cái hài và bi kịch người trí thức trong truyện ngắn “Vũ
điệu của cái bô”, tác giả Nguyễn Thị Thúy Hằng cũng nêu nhận định tương tự: Quan tâm
hơn đến con người, văn học sau 1975 bổ sung những mảng hiện thực nghiệt ngã, khu
ất tối
qua các số phận nhỏ bé của nhiều loại người trong xã hội. Ở những số phận đó có cả cái hài
lẫn cái bi, cái đẹp đẽ lẫn cái tầm thường. Đấy là bằng chứng về một tư duy hiện thực mới,
một quan niệm nghệ thuật mới về con người, một quan hệ “tiếp xúc thân mật suồng sã” của
nhà văn với đối tượng phả
n ánh [A.II.31, tr. 79].
Đánh giá về sáng tác Ma Văn Kháng, Nguyễn Thị Huệ có một ánh nhìn đầy chất nhân
văn về con người trong cuộc đời thường: Từ trong bản chất vốn có, con người là phong phú
và phức tạp (…) nên không thể dùng cái nhìn phân đôi con người một cách đơn giản, cứng
nhắc; phân biệt một cách rạch ròi: tốt- xấu, tích cực, tiêu cực mà cần phải đi sâu nghiên
cứu, mổ xẻ phân tích những nỗi ni
ềm thực, những uẩn khúc và bi kịch riêng của đời họ,
không thể dè bỉu, giễu cợt trước những vấp ngã, lầm lạc của con người mà cần phải có cái
nhìn bao dung, độ lượng, thể tất trước những lầm lạc đó. [A.II.34, tr. 53].
Trần Cương nêu một cái nhìn khái quát, so sánh sự khác biệt rõ nét của hai giai đoạn
văn học: Nếu các nhà văn trước 86 đứng ở phương diệ
n xã hội và phong trào để nhìn con
người thì các nhà văn sau 86 đã đứng ở góc độ con người để nhìn con người, xã hội và các
vấn đề chung. Do đó, dường như lần đầu tiên xuất hiện hai chủ đề thuộc về con người mà
trước kia chưa có. Đó là chủ đề về số phận con người và hạnh phúc cá nhân.[A.II.11,
tr.34,35]
Có thể nói thể tài thế sự, đời tư đang dần chiếm vị trí chủ
đạo trong văn xuôi, đáp ứng
được nhu cầu phân tích, lý giải, suy tư về con người, xã hội và mọi trạng huống của nhân
tình thế thái. Văn xuôi đương đại có sự chuyển đổi mạnh mẽ từ miêu tả hiện thực sang biểu
hiện hiện thực. Từ tái hiện hiện thực theo chiều rộng, chiều dài hướng tới sự tái hiện cuộc
sống theo chiều sâu, sự khái quát, triế
t luận về xã hội, nhân sinh, phát hiện ra bản chất của
cuộc sống xã hội và con người.[A.II.37, tr.28].
Để từ đó có thể khẳng định văn học hiện nay cũng đang hòa vào con đường chung
của văn học nhân loại ở phương diện khám phá những bí ẩn của con người.[A.II.3, tr18,19]
b. Nhận thức, lí giải, bàn luận về con người nhằm mục đích cuối cùng là để
hiểu con
người hơn, làm cho con người mỗi ngày sống tốt hơn.
Đánh giá về những việc, những con người sao được trọn vẹn là một điều quan trọng.
Mỗi một con người sống hết trọn đời mình không dễ mấy ai không gặp những khúc quanh,
những ngã rẽ, nhất là ngã rẽ của tâm hồn, trước một hành vi lựa chọn, một sự nhìn nhận
đúng, sai. Mà cũng không phải lúc nào ta cũng có thể sẻ chia và tìm gặp được một điểm tựa
để
sẻ chia một cách trực tiếp. Văn học, nhất là những thời điểm như vậy, là vô cùng cần thiết
để thực hiện chức năng của nó. Bởi các nhà văn lớn của mọi thời đều tìm đến con người, tiếp
cận và giải mã cuộc đời và con người, dẫu có theo những cách khác nhau thì cái mục đích cuối
cùng vẫn là dễ hiểu nó hơn.[A.II.46, tr. 29]
Phạm Xuân Nguyên khơi g
ợi cách nhìn nhận, cách đánh giá con người của hôm nay:
truyện ngắn hôm nay tiếp tục xới lật các mảng hiện thực của cuộc sống ở cả hai chiều của
quá khứ và hiện tại để mong góp một tiếng nói định vị cho người đọc một thái độ nhìn nhận,
đánh giá những việc, những người của bây giờ, của nơi đây. [A.II.61, tr.27]
Nhà nghiên cứu văn học Hoàng Ngọc Hiế
n, một cách giản dị, tự nhiên, đi thẳng vào
vấn đề thuộc bản chất của văn học : Con người không phải lúc nào cũng làm chủ được bản
thân mình. Vả chăng hiểu được bản thân mình không phải là dễ. Văn học có tác dụng to lớn
giúp cho con người hiểu được chính mình. [A.II.32, tr.21]
Về điểm này, Nguyễn Văn Kha trong Đổi mới quan niệm về con người trong truyện
ngắn Vi
ệt Nam 1975- 2000, phân tích khá đầy đủ: Chính tình yêu con người, lòng trắc ẩn, sự
cảm thông với những niềm vui, nỗi khổ của con người đã dẫn dắt tâm tưởng của nhà văn đến
với từng cuộc đời, từng số phận, để phát hiện, khám phá thế giới huyền diệu của con người,
nhìn thấy mặt tốt, mặt xấu, cái cao thượng, cái thấp hèn, cái thật, cái giả,… để có thái độ
yêu ghét phân minh, chống lại ách áp bức bóc lột, chống lại sự nô dịch con người. Vì thế,
chủ nghĩa nhân văn trong văn học không chỉ là tình yêu thương con người mà còn nâng cao
con người lên, hướng con người đến cái chân, cái thiện, cái mỹ. [A.1.21, tr.14].
Tô Huy Rứa góp thêm một lời nhắc nhở: Phải ý thức sâu sắc rằng, văn học, nghệ
thuật của chúng ta không chỉ là nhu cầu thiết yếu của con người mà chính là một trong
những
động lực to lớn trực tiếp góp phần xây dựng nền tảng tinh thần của xã hội và sự phát
triển toàn diện của con người Việt Nam.[A. II.73, tr.29]
Trên tinh thần đó, Nguyễn Ngọc Thiện khẳng định: Và vì văn hóa, văn nghệ là nền
tảng tinh thần của xã hội, thể hiện chiến lược về con người, nhằm mục tiêu xây dựng con
người, bồi dưỡng và phát huy nguồn lực con ng
ười nên tính nhân văn của nó trong sự hướng
tới Chân, Thiện, Mỹ được đề cao.[A. II.78, tr. 21]
Trong Các nhà văn trả lời phỏng vấn về chiến tranh, về đề tài chiến tranh trong văn
học, Xuân Thiều bộc bạch: Trong các truyện ngắn của mình, tôi thường mong muốn được
phát hiện những điều chưa biết của con người Việt Nam ta trong chiến tranh. Những điều
thuộc về thế giới bên trong, thuộc về phẩm chất, về cách nhìn, cách đánh giá con người thế
nào là hợ
p lẽ con người nhất. Để con người tốt hơn, yêu nhau hơn và điều quan trọng là giữ
gìn cho được cuộc sống đáng sống này, chống mọi sự đe dọa của chiến tranh.[A.II.35,
tr.133, 134]
Và nhận xét của Mai Hương: Sau những cảm hứng chà xát dữ dội với những mặt tiêu
cực của cuộc sống, nhiều tác phẩm văn xuôi đã tìm khơi lại cảm hứ
ng về những vẻ đẹp bình
dị… những chuyển động thầm kín và ấm áp trong ngõ ngách của tâm hồn con người.
[A.II.37, tr.28]
Lã Nguyên lạc quan: Giữa hai bờ chân, thiện, hướng tới cái đẹp, văn học đang dào
dạt đổ về đại dương nhân bản mênh mông.[A.II.56]
Bên cạnh đó, văn học khẳng định vị trí tối thượng của con người trong mọi cái thuộc
về giá trị có trong cuộc số
ng. Cá nhân con người vừa là đối tượng nhận thức trung tâm, vừa
là điểm xuất phát để văn học nhìn ra thế giới. Nó soi ngắm thế giới và định giá lịch sử qua
lăng kính và mức thước của cá nhân con người. Nguyễn Minh Châu cho khuynh hướng lấy
đời tư con người làm mảnh đất khám phá những quy luật vĩnh hằng của các giá trị nhân
bản. Nguyễn Huy Thiệp tiêu biểu cho khuynh hướng lấy cá nhân con người làm đơn v
ị cân
đo trạng thái nhân thế. [A.II.56, tr. 7]
Như vậy, có thể nói, cảm hứng triết luận về con người trong văn học Việt Nam thời
đổi mới, cụ thể truyện ngắn Việt Nam giai đoạn 1986-2000, nhìn chung được nhiều nhà
nghiên cứu, phê bình đề cập hoặc chú ý nhấn mạnh nhưng chưa được đi sâu, tập trung
nghiên cứu thành một công trình hoàn chỉnh, có hệ thống.
Tiếp nhận từ nhữ
ng nhận định đó, luận văn đi sâu nghiên cứu về Cảm hứng triết luận
về con người trong truyện ngắn Việt Nam từ năm 1986-2000 qua những truyện ngắn tiêu
biểu, tìm nhận những ý kiến, bàn luận, nhận thức, lý giải về con người của các nhà văn trên
nhiều bình diện bề ngoài lẫn chiều sâu trong tâm hồn, trong tổng thể mối quan hệ của nó.
3. Phạm vi nghiên c
ứu
Nghiên cứu Cảm hứng triết luận về con người trong truyện ngắn giai đoạn 1986-
2000, luận văn tập trung khảo sát 49 truyện ngắn đáng chú ý- những truyện ngắn mang đậm
chất triết luận về con người, giúp nhận diện về con người trong dạng thái đa diện nhiều chiều
của hôm nay. Có thể kể những truyện ngắn trong giai đoạn văn học 1986- 2000 của những
tác giả tiêu biểu như Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Huy Thiệp, Nguyễn Quang Thiều, Phạm
Thị Hoài, Nguyễn Thị Thu Huệ, Dạ Ngân, … và một số truyện ngắn đoạt giải trong các đợt
thi truyện ngắn trên Tuần báo văn nghệ, Văn nghệ Quân đội.
4. Phương pháp nghiên cứu
Trong luận văn chúng tôi v
ận dụng một số phương pháp sau:
Phương pháp lịch sử- xã hội:
Sự chuyển biến của văn học gắn với quá trình vận động đổi mới đang diễn ra đều khắp
trên xã hội. Dưới sự tác động của hoàn cảnh xã hội; trên quan điểm lịch sử cụ thể, luận văn
xem xét sự vận động và chuyển biến của văn học theo xu h
ướng tất yếu của nó, để từ đó cố
gắng tiếp cận một cách đầy đủ nhất những quan điểm của tác giả về đời sống, xã hội, đặc
biệt là về con người thể hiện trong tác phẩm.
Phương pháp hệ thống được chú ý vận dụng trong việc khảo sát tác phẩm, hệ thống
những yếu tố làm nổi bật vấn
đề của luận văn theo từng luận điểm, giúp có được cái nhìn
xuyên suốt.
Phương pháp phân tích- tổng hợp được chúng tôi sử dụng rộng rãi trong luận văn.
Đi từ việc khảo sát tác phẩm, phân tích những yếu tố nổi bật trong việc thể hiện cảm hứng
nghệ thuật (như khám phá tâm lí nhân vật, lí giải hành động của nhân vật,…) rút ra những
nhận xét có tính chất tổng hợp, khái quát, làm nổi rõ c
ảm hứng.
5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài nghiên cứu
5.1. Ý nghĩa khoa học
Như đã nói, cảm hứng triết luận về con người trong truyện ngắn thời đổi mới 1986-
2000 là một trong những cảm hứng chủ đạo của văn học thời kì đổi mới nhưng chưa được đi
sâu nghiên cứu một cách tập trung. Luận văn sẽ đ
i vào khảo sát vấn đề này một cách hệ
thống, cụ thể, góp phần làm sáng tỏ hơn trong việc nghiên cứu vấn đề này.
5.2. Ý nghĩa thực tiễn
- Nhận thức lại con người trong văn học thời kì đổi mới, như là một cách nhìn cuộc
sống trong những mối quan hệ bộn bề, phức tạp. Góp thêm tiếng nói, hướng về phía chiều
sâu trong tâm hồn con người, để mà nhận diện con ng
ười của hôm nay.
- Trong công tác giảng dạy ở nhà trường, luận văn hi vọng sẽ gợi ý được những hướng
tiếp cận mới trong việc phân tích và giảng dạy tác phẩm văn học ở bậc phổ thông, bổ sung
một góc nhìn mới về con người.
6. Kết cấu của luận văn
Luận văn gồm ba chương và hai phần ( phần mở đầu và kết luận).
Phần mở đầu: Nêu những vấn đề bao quát chung: Lý do chọn đề tài, lịch sử vấn đề,
đối tượng và phạm vi nghiên cứu, phương pháp nghiên cứu, ý nghĩa khoa học và thực tiễn
của đề tài nghiên cứu, kết cấu của luận văn.
Chương 1: Nhữ
ng tiền đề nảy sinh cảm hứng triết luận về con người trong truyện
ngắn Việt Nam giai đoạn 1986-2000
1.1 Cảm hứng nghệ thuật
1.1.1. Khái niệm cảm hứng.
1.1.2. Các dạng cảm hứng và cảm hứng chủ đạo
1.1.3. Cảm hứng triết luận về con người trong văn học Việt Nam giai đoạn 1986-
2000
1.2 Những tiền đề cho sự nảy sinh cảm hứng ngh
ệ thuật trong truyện ngắn Việt Nam
giai đoạn 1986-2000.
1.2.1. Sự quan tâm tới yếu tố con người trong đời sống chính trị, xã hội Việt Nam
sau 1975
1.2.2. Sự thay đổi quan niệm nghệ thuật về con người trong văn học Việt Nam
Chương 2: Cảm hứng triết luận với sự nhận diện con người trong truyện ngắn
Việt Nam giai đoạn 1986-2000.
2.1. Con người với đời sống xã h
ội.
2.1.1. Con người trong cuộc sống đời thường .
2.1.2. Con người với chuẩn mực đạo đức văn hóa.
2.2. Con người với thiên nhiên
2.2.1. Thiên nhiên tác động đến đời sống con người
2.2.2. Thiên nhiên làm phong phú nội tâm và khơi gợi khát vọng hướng thiện
2.2.3. Con người phải gìn giữ và sống hoà hợp với thiên nhiên
2.3. Con người hướng vào đời sống bên trong
2.3.1. Dấu vết chiến tranh với niềm đau day dứt
2.3.2. Hạnh phúc và những khắc kho
ải kiếm tìm
2.3.3. Sự hữu hạn của mỗi người trước thời gian đời người
Chương 3: Giọng điệu nghệ thuật của cảm hứng triết luận về con người trong
truyện ngắn Việt Nam giai đoạn 1986-2000.
3.1. Giọng trăn trở, day dứt.
3.2. Giọng thương xót, ngậm ngùi.
3.3. Giọng suy tư, triết lí .
Kết luận
Thư mục tham khảo



















Chương 1:
NHỮNG TIỀN ĐỀ NẢY SINH CẢM HỨNG TRIẾT LUẬN
VỀ CON NGƯỜI TRONG TRUYỆN NGẮN VIỆT NAM
GIAI ĐOẠN 1986- 2000
Cảm hứng triết luận là một trong những dạng cảm hứng nghệ thuật trong văn học. Sự
nảy sinh cảm hứng triết luận về con người trong truyện ngắn Việt Nam giai đoạn 1986-2000
như là một yếu tố tất y
ếu bởi sự chuyển đổi cảm hứng nghệ thuật về con người.
1.1. Cảm hứng nghệ thuật
1.1.1. Khái niệm cảm hứng
Bất cứ một tác phẩm nào đạt đến tính nghệ thuật đều không thể thoát ly cảm hứng mà
phải gắn liền với cảm hứng, nếu không nói là nó được khơi nguồn từ cảm hứng. Đối với tác
phẩm v
ăn học, cảm hứng là một trong những yếu tố quan trọng trong việc hình thành tác
phẩm, tạo ra sức mạnh của tác phẩm, đạt đến hiệu ứng thẩm mĩ. Vì cảm hứng không chỉ có
giá trị khơi nguồn mà xuyên suốt toàn tác phẩm, trở thành cảm hứng chủ đạo, chi phối nhiều
yếu tố có trong tác phẩm. Mọi tư tưởng, tình cảm, quan niệm nghệ thuật của nhà văn v
ề một
đối tượng nào đấy đều dậy lên từ cảm hứng. Cảm hứng càng mãnh liệt, nồng cháy, tác phẩm
càng đạt đến đỉnh cao của sức hút, tất nhiên phải gắn với những giá trị khác, như giá trị tư
tưởng, giá trị nghệ thuật.
Có thể coi cảm hứng là một thuật ngữ trong nghệ thuật, trong tác phẩm nghệ thuật
ngôn từ. Nó đã được dùng ngay t
ừ thời cổ đại Hy Lạp để chỉ “trạng thái phấn hứng cao độ
của nhà văn do việc chiếm lĩnh được bản chất cao độ của cuộc sống mà họ miêu tả” [A.I.38,
tr.141].
Nhưng cái “trạng thái phấn hứng cao độ” đó chỉ có thể là cảm hứng trong tác phẩm
văn học nghệ thuật khi sự lí giải, đánh giá đối tượng đạt đến mộ
t chiều sâu nhất định.
Trong cuốn Dẫn luận nghiên cứu văn học, G.N.Pôxpêlôp viết: Sự lí giải, đánh giá
sâu sắc và chân thật- lịch sử đối với các tính cách được miêu tả vốn nảy sinh từ ý nghĩa dân
tộc khách quan của các tính cách ấy là cảm hứng tư tưởng sáng tạo của nhà văn và của tác
phẩm của nhà văn [A.38, tr141]. Như vậy, một sự lí giải, đánh giá h
ời hợt, khiên cưỡng hoặc
không chân thật đối tượng được miêu tả đều không thể gọi là cảm hứng nghệ thuật. Một sự
nhìn nhận, đánh giá, lí giải sai sự thật hay phản sự thật thì càng không thể là cảm hứng nghệ
thuật. Chỉ khi nhà văn phải thật sự xúc động, thật sự ấn tượng cái đối tượng được miêu tả
kia, tạo thành một dòng chảy cả
m xúc đầy ứ, không thể giữ lại, thôi thúc nhà văn phải nói ra,
viết ra, vì đó còn là nhu cầu chia sẻ và được chia sẻ. Đến khi đó, cái được gọi là cảm hứng
mới thật sự chân thành, thật sự xúc động, và thật sự neo lại ở người đọc một giá trị đầy ý
nghĩa như mong đợi. Những trang sách viết về anh Trỗi (Sống như Anh- Trần Đình Vân),
chị Sứ (Hòn đất- Anh Đức), anh hùng Núp (Đất nước đứng lên- Nguyên Ngọc),…có s
ức
cuốn hút vì nó được viết lên từ cảm hứng chứa đầy cảm xúc chân thành, nồng nhiệt của nhà
văn. Những vần thơ dạt dào cảm xúc sẽ cháy mãi trong lòng người đọc dù qua bao tháng,
bao năm. Cũng như những ai đọc Người đi tìm hình của nước của Chế Lan Viên đều lắng
lại một nỗi niềm dân tộc:
Đất nước đẹp vô cùng nhưng Bác phải ra đi
Cho tôi làm sóng dưới con tàu
đưa tiễn Bác
Khi bờ bãi dần lui, làng xóm khuất
Bốn phía bờ bên không bóng một hàng tre
Đêm xa nước đầu tiên ai nỡ ngủ
Sóng vỗ dưới con tàu đâu phải sóng quê hương
Trời từ nay chẳng xanh thành xứ sở
Xa nước rồi càng hiểu nước đau thương
Nguyễn Văn Hạnh, Huỳnh Như Phương trong Lí luận văn học, vấn đề và suy nghĩ,
nêu khái niệm cảm hứng: “Cảm hứng là s
ự thiết tha và nhiệt tình nồng cháy gợi nên bởi một
tư tưởng nào đó”. Lẽ tất nhiên, tư tưởng đó phải là tư tưởng lành mạnh, tiến bộ, cao đẹp. Và
“Cảm hứng biến sự nhận thức của trí tuệ về một tư tưởng nào đó trở thành lòng say mê đối
với tư tưởng đó, trở thành năng lượng và thành khát vọng nồng nhiệt” [A.I.13, tr. 208-209).
Trần Đình Sử cũng khẳng định, cảm hứng là niềm say mê khẳng định chân lí, lí tưởng,
phủ định sự giả dối và mọi hiện tượng xấu xa, tiêu cực, là thái độ ngợi ca, đồng tình với
những nhân vật chính diện, là sự phê phán, tố cáo các thế lực đen tối, các hiện tượng tầm
thường…
Cảm hứng trong tác phẩm nghệ thuật phải được bắt ngu
ồn từ lí tưởng xã hội của nhà
văn, từ trong nhiệt huyết của mỗi nhà văn. Cái nhiệt huyết của một thanh niên mang lí tưởng
cách mạng “mặt trời chân lí chói qua tim” đã hun đúc nên trong Tố Hữu những vần thơ tràn
đầy cảm hứng lạc quan trước ngọn gió thời đại, trước sự chuyển mình của đất nước.
Trong Lí luận văn học do Phương Lựu chủ biên, có viết: “
Nội dung tư tưởng tác
phẩm văn học không bao giờ chỉ là sự lí giải dửng dưng lạnh lùng, mà gắn liền với cảm xúc
mãnh liệt” [A.I.26, tr. 268]. “Cảm hứng là một tình cảm mạnh mẽ, mang tư tưởng, là một
ham muốn tích cực đưa đến hành động”[A.I.26, tr. 268]. Điều quan trọng cần nhận ra cảm
hứng như một lớp nội dung đặc thù của tác phẩm văn học. “Cảm hứng của tác giả dẫn đến
sự đánh giá theo quy luật của tình cảm. (…). Niềm tin yêu, say mê và khẳng định tư tưởng,
chân lí làm cho cảm hứng trong tác phẩm thường mang tính “thiên vị”, “thiên ái” đối với tư
tưởng của mình, chân lí c
ủa mình” [A.I.26, tr. 269]. “Cảm hứng trong tác phẩm phải phục
tùng quy luật tình cảm là phải khêu gợi, khơi mở, chứ không thẳng đuột một chiều” [A.I.26,
tr. 270]. Cảm hứng không cho phép nhà văn thể hiện cảm xúc một cách bằng phẳng, nhạt
nhẽo. Nó là một năng lượng tình cảm được tập trung nén lại, chỉ chờ độc giả là thổi bùng lên.
Nội dung của cảm hứng tư tưởng bao gi
ờ cũng là một tình cảm xã hội đã được ý thức
và chỉ những tư tưởng lành mạnh, tích cực, tiến bộ mới dấy lên được những cảm hứng nghệ
thuật đích thực.
Như vậy, cảm hứng là tình cảm, cảm xúc mãnh liệt, say đắm, thể hiện tư tưởng, khát
vọng chân thành, cháy bỏng của nhà văn về đối tượng hướng đến trong tác phẩm. Cả
m hứng
gắn liền với những với lí tưởng cao đẹp của nhà văn về con người, cuộc sống. Nó khơi thông
miền cảm xúc qua mỗi trái tim người đọc, đọng lại một tình cảm sâu xa, khơi thông nguồn trí
tuệ, giúp nhận thức đối tượng trên nhiều phương diện, tiếp thêm sức mạnh tinh thần và đưa
đến hành động đúng đắn, đầy nhiệt huyết. Cảm hứng chủ
đạo là cảm hứng bao trùm, xuyên
suốt một tác phẩm hay toàn bộ sáng tác của một tác giả.
1.1.2. Các dạng cảm hứng và cảm hứng chủ đạo
Trong đời sống cũng như trong nghệ thuật, mọi cảm hứng bắt rễ từ tình cảm, cảm xúc
của con người. Mà cái tình trong con người thì đa dạng, phong phú, phức tạp và sâu sắc biết
chừng nào. Cảm hứng, vì vậy, cũng phong phú, đa dạng và phứ
c tạp. Và trong những trạng
thái, hoàn cảnh khác nhau của đối tượng làm nảy sinh những cảm hứng khác nhau. Có thể kể
như cảm hứng lãng mạn, cảm hứng bi kịch, cảm hứng phê phán, cảm hứng anh hùng, cảm
hứng triết luận,
Những dạng cảm hứng nói trên “đều là sự ý thức về mặt tư tưởng và sự đánh giá về
mặt cảm xúc, một sự ý thức và đ
ánh giá chân thực và sâu sắc về những gì đang diễn ra và
tồn tại trong thực tế” (A.I.38, tr.143). Dù vậy, sự phân chia những dạng cảm hứng ở những
nhà nghiên cứu văn học nghệ thuật cũng không hoàn toàn trùng khít với nhau. Theo
Pospelov, do những khác biệt cốt yếu của bản thân cuộc sống được nhận thức [A.I.38, tr141-
142] nên cảm hứng cũng có nhiều biến thể khác. Một số dạng thức của c
ảm hứng như cảm

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét