khác nhau nên tính của mỗi người khác nhau. Khi dân đông thì điều quan trọng
cần phải giáo dục họ.
Trong thời gian rất dài, hệ thống tư tưởng của Nho giáo chính là chuẩn mực
đạo đức của xã hội một số nước Phương Đông. Nho giáo được đưa vào trường
học và được coi là yếu tố bắt buộc để rèn Đức cho con người. Không những vậy
có thể thấy Nho giáo hiện diện trong mọi mặt của đời sống xã hội và trở thành
kim chỉ nam điều chỉnh hành vi của con người. Ở phương Đông nói chung chịu
ảnh hưởng của văn hóa Trung Quốc một cách sâu sắc, nhất là Việt Nam. Trung
Quốc đô hộ Việt Nam hơn một nghìn năm nên đã đưa văn hóa, phong tục tập
quán của mình vào nhằm biến Việt Nam thành một vùng đất cai quản. Trong sự
du nhập văn hóa thì Nho giáo có vị trí khá cao trong xã hội Việt Nam và đặc biệt
Nho giáo ảnh hưởng tới mô hình gia đình một cách sâu sắc.
II. NGUỒN GỐC CỦA NHO GIÁO
Sự phát kiến ra văn minh Trung Hoa là công của thế kỷ 18, “thế kỷ ánh
sáng”. Diderot, một triết gia Pháp ở thế kỷ 13 đã nhận xét về người Trung Hoa
như sau: “Mọi người đều công nhận rằng dân tộc ấy văn minh hơn hết thảy các
dân tộc khác ở Châu Á: lịch sử họ cổ hơn, tinh thần, nghệ thuật tiến bộ hơn, họ
minh triết hơn, thích triết lí, chính trị của họ hoàn hảo hơn; và vài tác giả còn
bảo rằng về tất cả các phương diện ấy họ không kém các xứ văn minh nhất Châu
Âu”. Trong một cuốn sách của Keyserling, ông kết luận rằng “Chính ở Trung
Quốc thời thượng cổ người ta đã tạo ra được cái mẫu mực nhân loại thông
thường hoàn toàn nhất…Trung Quốc đã tạo ra một nền văn hóa cao nhất từ
trước đến nay…Tôi càng ngày càng ngạc nhiên, cảm kích về sự cao quý của
Trung Quốc…Những danh nhân xứ đó có giáo dục hơn các danh nhân chúng ta
rất nhiều…Những ông quan đó có tư cách thật cao, khiến chúng ta phải phục…
Giới trí thức Trung Hoa thật là cực kỳ nhã nhặn, lễ độ! Không còn nghi ngờ gì
nữa, người Trung Hoa có lẽ là người thâm trầm nhất.”. Để có được những cái
tinh hoa như vậy thì Trung Quốc đã phải trải qua những biến động to lớn.
Nhưng cũng chính nhờ những biến động trong xã hội thời bấy giờ mà con người
Trang 5
mong muốn tìm được giải pháp để bình ổn xã hội, và đã có nhiều tư tưởng đã ra
đời tạo nên sự khởi sắc của các học thuyết chính trị trong lẽ sống làm người của
họ, đặc biệt là hệ thống triết học.
Theo nhiều tư liệu khác nhau, người ta vẫn khẳng định rằng triết học
Trung Quốc xuất hiện vào thế kỷ thứ 8 đến thế kỷ thứ 3 trước công nguyên.
Trong lịch sử, thời kỳ này được gọi là thời Xuân Thu Chiến Quốc (chiến tranh
loạn lạc), thời kỳ xã hội Trung Quốc diễn ra nhiều biến động to lớn, thời kỳ giải
thể chế độ chiếm hữu nô lệ chuyển sang chế độ phong kiến. Nguyên nhân dẫn
đến tình trạng đó là kinh tế. Thời kỳ này, lực lượng sản xuất phát triển, sử dụng
và chế tạo công cụ bằng sắt, sử dụng các con vật vào trong quá trình sản xuất
đem lại năng suất lao động cao. Chính sự phát triển trong sản xuất nông nghiệp
dẫn đến sự phát triển trong sản xuất công nghiệp, các đô thị lớn, trung tâm kinh
tế lớn, và trung tâm giao lưu kinh tế và văn hóa ra đời ảnh hưởng và tác động
đến chế độ sở hữu và làm xuất hiện giai cấp mới và những mâu thuẫn giai cấp.
Các giai cấp này đấu tranh với nhau tạo nên cục diện gọi là Xuân thu chiến
quốc. Cục diện này làm rối loạn từ trong gia đình đến ngoài xã hội. Thực tế, các
vua chư hầu có thực quyền vượt qua thiên tử. Rồi tình trạng bề tôi giết vua, vua
giết bề tôi liên tục xảy ra. Trong gia đình thì cha không ra cha, vợ không ra vợ…
Vấn đề chính trị thực tiễn đặt ra là phải làm gì và bằng cách gì để khắc phục tình
trạng rối loạn, khôi phục lại xã hội như thời vua Nghiêu, vua Thuấn và đặc biệt
là phải đưa xã hội Trung Hoa phát triển đi lên. Chính vì để giải đáp những thực
tiễn ấy làm xuất hiện cảnh giới Bách gia tranh minh, Bách gia tri tử.
Từ việc tranh luận, con đường đưa xã hội Trung Hoa tiến lên làm xuất
hiện hơn 100 trường phái triết học khác nhau xuất hiện. Đáng kể nhất là có cửu
phái: Âm dương ngũ hành, Nho gia, Pháp gia, Đạo gia, Mặc gia, Danh gia,
Nông gia, Tạp gia, Tung hoành gia. Trong đó, Nho gia là tư tưởng có ảnh hưởng
nhiều nhất không chỉ ở Trung Quốc mà còn ảnh hưởng ra các khu vực lân cận,
đặc biệt là Việt nam.
Trang 6
Nho giáo bắt nguồn từ thời thái cổ ở Trung Quốc. Ngày đó vua Phục Hy,
một Thánh Vương đắc đạo, trông thấy được các hiện tượng trong cõi Hư linh.
Ngài nhìn thấy Long Mã có bức đồ trên lưng gồm những chấm đen trắng, nổi
lên giữa sông Hoàng Hà, mà biết được lẽ âm dương, chế ra Tiên Thiên Bát Quái,
cắt nghĩa sự biến hóa của trời đất để là nguyên tắc dạy người. Những vạch đơn
giản của Bát Quái ấy được xem là đầu mối của văn tự về sau này. Vua Phục Hy
còn dạy dân nuôi súc vật để sai khiến, làm lưới để đánh cá, nuôi tằm để lấy tơ,
chế đàn cầm đàn sắt, dạy dân lễ nghĩa, phép cưới vợ gả chồng, từ đó mới có
danh từ gia tộc.
Đến thời vua Hoàng Đế (Hiên Viên Huỳnh Đế), mới chế ra áo mão và sai
ông Thương Hiệt ra chế ra chữ viết. Đó là khởi thủy của Nho giáo, hình thành
do thực tế kết hợp với huyền lý của Trời Đất. Nho giáo lấy đạo Trời làm khuôn
mẫu, dạy người thuận theo lẽ Trời, còn nghịch với Trời thì phải chết. Lúc này,
Nho giáo đã giúp Trung Quốc thời Thượng Cổ được hòa bình, dân chúng trên
thuận dưới hòa, tạo ra một nền luân lý có căn bản vững chắc.
Tiếp theo đến đời nhà Châu, vua Văn Vương và con của ngài là Châu
Công Đán, tiếp tục khuếch trương Nho giáo, diễn giải Kinh Dịch do vua Phục
Hy truyền lại, hệ thống hóa lễ nghi và sự tế tự. Đó là Nho giáo thuộc Nhất Kỳ
Phổ Độ.
Vào cuối thời nhà Châu, đời vua Linh Vương, năm 551 trước Tây lịch, đức
Khổng Tử đã ra đời. Ông đã chỉnh đốn và san định kinh sách, phục hưng Nho
giáo, tạo thành một Nho giáo có học thuyết có hệ thống chặt chẽ, xứng ngang
hàng với với Lão giáo và Phật giáo. Đây được coi là Nho giáo thời Nhị Kỳ Phổ
Độ.
Kể từ khi được Đức Khổng Tử phục hưng, nối tiếp về sau Nho giáo được
các vị Thánh nhân như Tử Tư, Mạnh Tử phát huy đến độ rực rỡ, nhưng rồi cũng
suy tàn theo thời gian vì không có bậc tài giỏi nối tiếp. Mặc dù vậy, tư tưởng
Nho giáo cũng đã ăn sâu và trở thành chuẩn mực đạo đức trong đời sống văn
hóa của người dân, đặc biệt là Việt Nam.
Trang 7
III. SƠ LƯỢC VỀ HỌC THUYẾT CỦA NHO GIÁO
Người sáng lập ra phái Nho gia là Khổng Tử (551-479), tên thật là Khổng
Khâu, tự là Trọng Ni, người nước Lỗ. Xuất thân trong một gia đình quý tộc suy
vong, ông trọn đời lo cho những hoạt động giáo dục, văn hóa. Đến thời trung
niên, có một dạo ông ra làm quan. Tư tưởng của ông phản ánh tập trung trong
cuốn Luận ngữ, đó là tác phẩm do môn nhân cùng học trò của ông ghi chép lại
những câu chuyện, những mẫu hội thoại, những câu giải đáp thắc mắc của ông
và học trò.
Về phương diện Triết học, Khổng Tử dao động giữa duy tâm và duy vật.
Một mặt ông tuyên dương “sợ mệnh trời, sống chết có mệnh, giàu sang tại trời”;
một mặt lại nói “trời có gì đâu mà bốn mùa vận hành vạn vật sinh trưởng”; một
mặt “kính quỷ thần mà nên xa quỷ thần”, mặt khác lại “không nói những quái
lực loạn thần”. Tuy ông không rõ ràng phủ nhận sự tồn tại của quỷ thần, trái lại
nhận rằng quỷ thần thật không có ảnh hưởng gì đến cuộc sống thực tại của con
người. Nhận thức luận của Khổng tử có tính nước đôi. Một mặt ông nói: “người
mới sinh ra mà đã biết là bậc trên, người phải học mới biết là hạng thứ”. Mặt
khác, ông không thừa nhận bất cứ một hạng người nào sinh ra mà đã biết, gồm
cả chính ông. Trong Thuật Nhi ông đã nói: “Ta không phải là người sinh ra mà
đã biết, ham đạo đời xưa, ta chỉ thích đạo ngày xưa mà lo cần mẫn học thôi”.
Bên cạnh đó, ông còn khẳng định một cách trừu tượng có tri thức tiên nghiệm.
Vì theo ông, bất kỳ một tri thức nào đều phải thông qua điều tai nghe mắt thấy
mà có. Một mặt ông nói “duy thượng trí dữ hạ ngu bất di” (chỉ có hạng trí ở trên
và hạng ngu ở dưới là không thay đổi, xê dịch được). Mặt khác, ông lại nói
“Tính tương cận, tập tương viễn”. Như vậy, ông đã thừa nhận con em nhà bần
tiện cũng có thể thành người có đức hạnh. Sự mẫu thuẫn giữa yếu tố duy tâm và
duy vật trong quan điểm triết học của ông có liên quan mật thiết đến yếu tố bảo
thủ với những yếu tố cải lương trong quan điểm chính trị của ông.
Về phương diện chính trị, Khổng Tử vẫn hy vọng quay trở về với thời đại
sinh hoạt Tây Chu: lễ nhạc chinh phạt đều do mệnh lệnh thiên tử ban bố ra. Ông
Trang 8
không tán thành một số cải cách trái với lễ nhà Chu. Như vậy, ông có tính bảo
thủ ở một mức độ nhất định. Tuy nhiên, đối với lễ, ông chủ trương nên có những
thêm bớt cần thiết. Ông đã nhập Nhân vào với Lễ. Ông nói Lễ lấy Nhân làm cơ
sở tư tưởng, và Nhân lấy Lễ làm nguyên tắc chính trị. Ông xem Nhân là phạm
trù cao nhất của luân lý đạo đức, đem hàm nghĩa cơ bản của nó mà lý giải thành
Nhân là yêu người, thể hiện một sự tôn trọng nhất định đối với nhân cách, trong
khi đương thời hạng quý tộc chủ nô không coi nô lệ là người.
Về tư tưởng giáo dục, lần đầu tiên ông đề xuất có thể dạy dỗ được cho tất
cả mọi người, tức là ông đã đả phá giới hạn thị tộc khiến cho giáo dục ở trên một
trình độ nhất định đã hướng mở cho quần chúng nhân dân. Trong thực tiễn giáo
dục, ông nhấn mạnh “dạy người không biết mỏi”, “dạy có thứ tự dẫn dắt người
học dễ tiếp thu”. Ông chú ý phát huy tính năng động chủ quan của học sinh, khi
học sinh tự cảm thấy có vấn đề thì mới nêu ra giảng giải từng điểm. Trong Thuật
Nhi, ông nói: “Không bực tức vì không hiểu được, thì ta không bảo cho mà biết,
không hậm hực vì không nói ra được, thì ta không bảo cho mà nói, cử một góc,
chẳng biết xét đến ba góc, thì ta không bảo lại vậy”. Ông luôn yêu cầu học sinh
phải tự tìm tòi, học hỏi. Phải năm chắc cái cốt lõi của vấn đề để đưa ra những
phương pháp hớp lý. Tư tưởng của ông đã có những ảnh hưởng vô cùng sâu xa
trong lịch sử giáo dục Trung Quốc.
Về phương diện thái độ và phương pháp học tập, Khổng tử đã có nhiều
quan điểm, có những sự phân tích sâu sắc. Ông dạy học trò: “Biết cái gì nhận là
biết, chảng biết cái gì nhận là chẳng biết, như thế là biết vậy”. Theo quan niệm
của ông nếu giỏi chăm vào việc học tập thì ở đâu cũng tìm thấy thầy để học:
“Trong ba người cùng đi, hẳn có người là thầy ta, chọn điều thiện của họ mà
theo, nêu điều bất thiện của họ mà sửa đổi”. Ông đặc biệt chú ý đến sự kết hợp
giữa học tập và nghiền ngẫm suy nghĩ. Yêu cầu học phải đi đôi với hành, thường
xuyên ôn luyện lại những kiến thức cũ. Trong thời cổ đại, những nguyên tắc của
ông đã thành cách ngôn chỉ đạo giữa việc xử sự giữa người với người, ngày nay
vẫn có ý nghĩa tích cực.
Trang 9
Người thầy vĩ đại thứ hai của Nho gia là Mạnh Tử (385-304), tên thật là
Kha, tự là Tử Dư, người nước Trâu, từng thụ nghiệp với môn nhân của Khổng
Cấp, tức Tử Tư, cháu nội của Khổng Tử. Mạnh Tử cũng giống Khổng tử, đi chu
du khắp nước mà chưa từng làm quan, suốt một đời chỉ lo dạy học. Tư tưởng
của ông chủ yếu phán ảnh trong bảy thiên sách Mạnh Tử do ông cùng học trò
của ông biên soạn qua những lời bàn luận của bản thân ông.
Cốt lõi triết học của Mạnh Tử là Thuyết tính thiện và Thuyết lương tri.
Ông nhận rằng, mỗi người đều có những mầm mống đầy đủ về quan niệm cơ
bản đạo đức phong kiến: Lòng trắc ẩn là đầu mối đức nhân, lòng hổ giận là đầu
mối đức nghĩa, lòng từ nhượng là đầu mối đức lễ, lòng phải trái là đầu mối đức
trí. Bốn đầu mối ấy cùng với đời sống của con người ta mà đến, cũng như ta có
tứ chi, mọi người đều giống nhau. Có người không phải thành thiện nhân, không
phải là tại nhân tính có gì sai kiệt mà vì người đó không lo bồi dưỡng, mở rộng
bấy nhiêu đầu mối thiện, do đó mà đánh mất bản tính. Mạnh Tử nhận rằng trí
thức của người chỉ có thể có được cùng với cuộc sống của ta. Điều con người
không học mà biết đó là lương năng. Điều không lo nghĩ mà biết, đó là lương tri.
Theo ông, sự manh nha của tất cả tri thức đa ở nội tâm của con người. Ông rất
chú ý phát huy tính năng động của con người, nhấn mạnh tư duy lý tính ngang
hàng với nhận thức cảm tính: “Lỗ tai con mắt không lo nghĩ, cái tâm sẽ lo nghĩ.
Lo nghĩ thì được, không lo nghĩ thì không được cái gì”. Mạnh tử còn đề xướng
thế giới quan: “Vạn vật đều đủ ở ta”. Như vậy tư tưởng của ông thuộc duy tâm
luận chủ quan.
Tư tưởng dân bản là tinh hoa của quan điểm chính trị của ông. Ông thừa
nhận rằng, đối với một quốc gia dân là quý, xã tắc là hàng thứ sau dân, vua là
nhẹ. Cho nên Vua phải có trách nhiệm với bề tôi, còn bề tôi phải trung thành với
Vua. Ông nói: “Vua xem bề tôi như tay chân, thì bề tôi xem Vua như tâm phúc,
Vua xem bề tôi như chó ngựa, thì bề tôi xem Vua như dân thường, Vua xem bề
tôi như bùn đất rau cỏ, thì bề tôi xem Vua như thù địch.”. Ông xem giữa Vua tôi
có một quan hệ qua lại ở một trình độ nhất định, không có sự phục tùng và nghĩa
Trang 10
vụ lệ thuộc trời sinh. Điều này có chỗ bất đồng với đạo Vua cho ra vua, tôi cho
ra tôi của Khổng Tử.
Quan điểm của Khổng Tử và Mạnh Tử có những điểm bất đồng nhưng
đều tựu chung vào vấn đề lấy con người làm trọng, mong muốn xây dựng một
xã hội lý tưởng, thiên hạ thái bình, ai cũng được giáo dục và học hành. Tư tưởng
của Nho đã tạo cho Trung Quốc thời Thượng cổ có nền tảng luân lý vững chắc.
Từ đời Tống trở về sau, Khổng Tử được tôn là Chí Thánh Tiên Sư, còn Mạnh Tử
là Á Thánh Công.
Trang 11
CHƯƠNG 2: HỌC THUYẾT NHO GIÁO TRONG VĂN HÓA GIA ĐÌNH
VIỆT NAM
Trong mọi xã hội, gia đình luôn là yếu tố cấu thành quan trọng nhất. Điều
này càng tỏ ra đúng đắn đối với các xã hội phương Đông vốn có truyền thống đề
cao các mối quan hệ cộng đồng hơn thể hiện cá nhân. Các trường phái tư tưởng
phương Đông thường có khuynh hướng thiết lập những chuẩn mực đạo đức dựa
trên vai trò và các mối quan hệ xã hội của con người. Chúng thường mang tính
chất hướng nội và khô cứng, có nghĩa là tập trung giáo huấn con người ở mức
độ tự giác theo những khuôn mẫu được đặt sẵn từ rất lâu đời. Những khuôn mẫu
này được áp dụng không đổi trong mọi trường hợp, mọi đối tượng mà quên đi
yếu tố linh động của văn hóa ứng xử.
Nho giáo, một trường phái tư tưởng lớn của Trung Quốc, cũng không
tránh khỏi những nhược điểm cố hữu đó. Nó thiết lập những giới hạn vô hình
đối với con người và ngăn cản sự phá cách bằng định kiến xã hội. Con người
hành động theo những “tấm gương” mà theo Nho giáo là những người quân tử,
những phẩm hạnh đạo đức cần noi theo. Như vậy trong xã hội hình thành nên
một lớp người chỉ biết suy nghĩ theo những quy tắc sáo rỗng, khô cứng mà quên
đi việc phát triển cái tôi cá nhân của mình. Trì trệ trong tư duy nhận thức của
con người mang lại sự kém phát triển của xã hội. Tuy nhiên cũng phải thừa nhận
rằng Nho giáo đóng một vai trò vô cùng to lớn trong việc giáo dục nhân cách
con người và bình ổn xã hội. Đạo đức, hành vi luôn được quy định chặt chẽ tùy
thuộc vào danh phận, địa vị hay trình độ tri thức của mỗi người. Trong quan
điểm của Nho giáo, chúng ta thấy không tồn tại một con người cá nhân, một cái
tôi tách khỏi xã hội. Chính việc nhìn nhận con người trong tổng hòa các mối
quan hệ xã hội đã giúp cho Nho giáo đề ra được những giải pháp bình ổn xã hội.
Nếu xét trên quan điểm quản lý đất nước, Nho giáo là một công cụ hữu hiệu để
giáo dục người dân và khơi dậy trong họ ham muốn hướng thiện để trở thành
bậc “thánh nhân” hay người “quân tử” và được “lưu danh thiên cổ”. Lúc này
chính những nhược điểm của Nho giáo đã đề cập bên trên lại có tác dụng hạn
Trang 12
chế hành động của con người trong một giới hạn mong muốn, mang lại một xã
hội ổn định hơn.
Nho giáo cho rằng mọi người trong xã hội đều bị trói buộc bởi năm mối
quan hệ tự nhiên. Đó là quan hệ PHỤ – TỬ, PHU – THÊ, HUYNH – ĐỆ,
QUÂN – THẦN, và BẠN – HỮU. Năm mối quan hệ này phản ánh hai mặt của
cuộc sống hiện thực là quan hệ gia đình và quan hệ xã hội. Trong mối quan hệ
ấy Nho giáo đã đưa ra những chuẩn mực đạo đức tương ứng: Nhân, Nghĩa, Lễ,
Trí, Tín, Hiếu, Trung. Trong đó tương ứng với mỗi quan hệ, Nho giáo đặt ra
những yêu cầu mang tính quy phạm đạo đức riêng. Trong phạm vi bài tiểu luận
này sẽ đề cập đến học thuyết của Nho giáo Trung Quốc tới ba mối quan hệ trong
gia đình người Việt là PHỤ – TỬ, PHU – THÊ, và HUYNH – ĐỆ.
I. HỌC THUYẾT NHO GIÁO TRONG QUAN HỆ PHỤ - TỬ
Lịch sử hàng ngàn năm Bắc thuộc đã mang lại cho văn hóa Việt Nam
những ảnh hưởng nhất định từ nền văn hóa Trung Quốc. Chúng ta có thể dễ
dàng thấy được lối sống, chuẩn mực đạo đức và hành vi ứng xử khá tương đồng
của con người sống ở hai quốc gia này. Rất nhiều phong tục, tập quán như lễ tết,
thủ tục cưới xin, ăn uống có nguồn gốc từ Trung Quốc nay đã trở thành một
phần văn hóa Việt Nam. Tuy nhiên dáng dấp của văn hóa Trung Hoa mà điển
hình là Nho giáo được thể hiện rõ nhất trong cơ cấu, quan hệ giữa các thành viên
và tôn ti trật tự trong gia đình người Việt.
Trong quan niệm của người Việt Nam và Trung Quốc, gia đình là tế bào
nhỏ nhất hình thành nên xã hội, trong đó các thành viên đều đóng vai trò chung
để gia đình là một tổ chức có ích cho xã hội. Hơn thế nữa người Việt Nam và
người Trung Quốc cổ còn xem gia đình là một cơ thể thống nhất cùng chung
hưởng vinh nhục với từng thành viên trong gia đình. Do đó mới có chuyện “con
làm, cha chịu” hay “Chu di cửu tộc” có nghĩa là một người chịu tội, chín họ liên
đới phải chịu chém đầu. Có lẽ chính vì vậy mà hệ thống giáo dục tức là tư tưởng
Nho giáo lúc bấy giờ quy định nghiêm ngặt những luật lệ điều chỉnh hành vi của
từng thành viên trong gia đình. Quan điểm “nam tôn, nữ ti” đã mang lại quyền
Trang 13
lực tối cao cho người đàn ông hay người cha trong gia đình. Họ có quyền quyết
định mọi việc nhưng đồng thời họ cũng là người chịu trách nhiệm chính trong
gia đình. Như vậy, luôn tồn tại hai con người mà mà người chủ gia đình phải đối
mặt. Thứ nhất đó là người cha, người chồng thực thụ với lòng yêu thương, bao
dung thiên bẩm của người Á Đông. Nhưng song song với con người này là
người chủ gia đình mang đậm tư tưởng gia trưởng có trách nhiệm nối bước tổ
tiên mang lại vinh quang cho gia đình. Sự xung đột này cũng tồn tại trong các
thành viên khác đó là xung đột giữa ý thức tuân thủ luật lệ và mong muốn vươn
tới sự công bằng. Và chính điều này đã tạo ra những câu chuyện thật cảm động
trong mối quan hệ Phụ - Tử, hay còn gọi là quan hệ cha – con.
Quan hệ cha – con là một trong ba mối quan hệ cơ bản của con người.
Duy trì mối quan hệ này cũng là duy trì tôn ti trật tự trong gia đình cũng như xã
hội và ràng buộc trách nhiệm giữa con người với con người. Tư tưởng Nho giáo
đã ảnh hưởng sâu sắc đến chuẩn mực đạo đức gia đình người Việt, và được thể
hiện dưới nhiều góc độ khác nhau. Chuẩn mực đạo đức trong quan hệ cha – con
tập trung biểu hiện trong khuôn khổ của Từ, Hiếu và Lễ.
Trang 14
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét