BỘ TƯ PHÁP
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI
KHOA PHÁP LUẬT KINH TẾ
BÀI TẬP HỌC KỲ
BỘ MÔN LUẬT DÂN SỰ
ĐỀ SỐ 10 : HỢP ĐỒNG DÂN SỰ VÔ HIỆU
Họ và tên : LÊ HUY KHANG
MSSV : KT33E005
Lớp : KT33E
KHOA : PHÁP LUẬT KINH TẾ
Nhóm : E1-1
HÀ NỘI 5 - 2010
Đặt vấn đề
Trong cuộc sống xã hộị hàng ngày việc hình thành các hợp đồng dân sự diễn
ra thường xuyên. Đó là “sự thoả thuận giữa các bên về việc xác lập, thay đổi
và chấm dứt nghĩa vụ dân sự”. Nói cách khác hợp đồng dân sự chính là một
hình thức của giao dịch dân sự. Qua các hợp đồng dân sự các chủ thể tham
gia quan hệ dân sự không chỉ thỏa thuận để một bên chuyển giao tài sản,
thực hiện một công việc cho bên kia mà còn có thể thỏa thuận để thay đổi,
chấm dứt các nghĩa vụ đó. Tuy nhiên không phải bao giờ hợp đồng dân sự
được lập nên cũng có hiệu lực. Việc các hợp đồng dân sự vô hiệu có rất
nhiều nguyên nhân. Việc hiểu rõ về hợp đồng dân sự vô hiệu và hậu quả
pháp lí của nó có ý nghĩa rất thiết thực trong việc học môn pháp luật dân sự
và áp dụng vào cuộc sống thường ngày. Chính vì lí do đó em đã chọn đề “
hợp đồng dân sự vô hiệu ” làm đề tài cho bài tập dân sự học kì của mình.
Đây là một đề tài khá rộng nên bài làm không thể tránh khỏi thiếu sót, em
mong được ý kiến đóng góp giúp đỡ của quý thầy, cô. Em xin cảm ơn!
Nội dung
A . HỢP ĐỒNG DÂN SỰ VÔ HIỆU
Điều 410 BLDS năm 2005 viện dẫn việc áp dụng các quy định từ Điều
127 đến Điều 138 vì hợp đồng là một loại giao dịch dân sự, do đó, cần áp
dụng những quy định về giao dịch dân sự vô hiệu đối với hợp đồng vô hiệu.
Điều 410. Hợp đồng dân sự vô hiệu
1. Các quy định về giao dịch dân sự vô hiệu từ Điều 127 đến Điều 138 của
Bộ luật này cũng được áp dụng đối với hợp đồng vô hiệu.
2. Sự vô hiệu của hợp đồng chính làm chấm dứt hợp đồng phụ, trừ trường
hợp các bên có thoả thuận hợp đồng phụ được thay thế hợp đồng chính. Quy
định này không áp dụng đối với các biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ
dân sự.
3. Sự vô hiệu của hợp đồng phụ không làm chấm dứt hợp đồng chính, trừ
trường hợp các bên thoả thuận hợp đồng phụ là một phần không thể tách rời
của hợp đồng chính.
Theo quy định tại Điều 127 BLDS, giao dịch dân sự không có một trong các
điều kiện được quy định tại Điều 122 BLDS thì vô hiệu.
Điều 127. Giao dịch dân sự vô hiệu
Giao dịch dân sự không có một trong các điều kiện được quy định tại Điều
122 của Bộ luật này thì vô hiệu
Điều 122. Điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự
1. Giao dịch dân sự có hiệu lực khi có đủ các điều kiện sau đây:
a) Người tham gia giao dịch có năng lực hành vi dân sự;
b) Mục đích và nội dung của giao dịch không vi phạm điều cấm của pháp
luật, không trái đạo đức xã hội;
c) Người tham gia giao dịch hoàn toàn tự nguyện.
a. Người tham gia hợp đồng dân sự có năng lực hành vi dân sự
Thuật ngữ "người" ở đây phải hiểu theo nghĩa rộng, bao gồm các chủ thể của
quan hệ pháp luật dân sự: Cá nhân, pháp nhân, hộ gia đình, tổ hợp tác.
- Cá nhân :
Bản chất của hợp đồng dân sự là sự thống nhất giữa ý chí và bày tỏ ý chí của
chủ thể tham gia giao dịch. Chỉ những người có năng lực hành vi mới có ý
chí riêng và nhận thức được hành vi của họ để có thể tự mình xác lập, thực
hiện các quyền, nghĩa vụ phát sinh từ hợp đồng đồng thời phải tự chịu trách
nhiệm trong giao dịch. Cho nên, hợp đồng dân sự do cá nhân xác lập chỉ có
hiệu lực nếu phù hợp với mức độ năng lực hành vi dân sự của cá nhân (từ
Điều 17 đến Điều 23 BLDS ).
+ Người từ đủ 18 tuổi trở lên có năng lực hành vi dân sự đầy đủ, trừ trường
hợp họ bị toà án tuyên bố mất năng lực hành vi, tuyên bố hạn chế năng lực
hành vi. Người có năng lực hành vi dân sự đầy đủ được toàn quyền xác lập
mọi giao dịch dân sự.
+ Người từ đủ 6 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi có năng lực hành vi dân sự chưa
đầy đủ khi xác lập, thực hiện giao dịch dân sự phải có sự đồng ý của người
đại diện theo pháp luật trừ những giao dịch nhằm phục vụ nhu cầu sinh hoạt
hàng ngày phù hợp với lứa tuổi.
+ Người từ đủ 15 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi được xác lập, thực hiện các giao
dịch dân sự trong phạm vi tài sản riêng mà họ có, trừ trường hợp pháp luật
có quy định khác (lập di chúc phải được cha, mẹ hoặc người giám hộ đồng
ý…).
+ Những người chưa đủ 6 tuổi, người mất năng lực hành vi không được
phép xác lập giao dịch. Mọi giao dịch dân sự của những người này đều do
người đại diện theo pháp luật xác lập, thực hiện.
- Pháp nhân, hộ gia đình, tổ hợp tác :
Các chủ thể này tham gia vào hợp đồng dân sự thông qua người đại diện của
họ (đại diện theo pháp luật, theo uỷ quyền). Người đại diện xác lập, thực
hiện hợp đồng dân sự nhân danh người được đại diện. Các quyền, nghĩa vụ
do người đại diện xác lập làm phát sinh quyền, nghĩa vụ của pháp nhân, hộ
gia đình, tổ hợp tác. Tuy nhiên, pháp nhân chỉ tham gia các hợp đồng dân sự
phù hợp với chức năng, nhiệm vụ của pháp nhân. Hộ gia đình chỉ được tham
gia các hợp đồng dân sự liên quan đến quyền sử dụng đất, đến hoạt động sản
xuất nông, lâm, ngư nghiệp và trong một số lĩnh vực sản xuất kinh doanh
khác theo quy định của pháp luật (Điều 106 BLDS). Tổ hợp tác chỉ được
tham gia các hợp đồng dân sự liên quan đến hoạt động sản xuất kinh doanh
của tổ được xác định trong hợp đồng hợp tác (Điều 111 BLDS). Người đại
diện xác lập hợp đồng dân sự làm phát sinh quyền, nghĩa vụ của pháp nhân,
hộ gia đình, tổ hợp tác trong phạm vi nhiệm vụ của chủ thể đó được điều lệ
hoặc pháp luật quy định.
b. Mục đích và nội dung của hợp đồng dân sự không trái pháp luật, đạo
đức xã hội
Mục đích của hợp đồng dân sự là lợi ích hợp pháp mà các bên mong muốn
đạt được khi xác lập giao dịch đó (mục đích thực tế). Nội dung của hợp đồng
dân sự là tổng hợp các điều khoản mà các bên đã cam kết, thoả thuận trong
giao dịch. Những điều khoản này xác định quyền, nghĩa vụ của các bên phát
sinh từ giao dịch. Mục đích và nội dung của giao dịch có quan hệ chặt chẽ
với nhau. Con người xác lập, thực hiện hợp đồng dân sự luôn nhằm đạt được
mục đích nhất định. Muốn đạt được mục đích đó họ phải cam kết, thoả thuận
về nội dung và ngược lại những cam kết, thoả thuận về nội dung của họ là để
đạt được mục đích của hợp đồng. Ví dụ: Trong hợp đồng mua bán tài sản,
mục đích mà các bên hướng tới là quyền sở hữu tài sản. Để đạt được mục
đích này họ phải thoả thuận được về nội dung của hợp đồng mua bán bao
gồm các điều khoản như đối tượng (vật bán), giá cả, thời hạn, địa điểm,
phương thức thực hiện hợp đồng. Sự thoả thuận về các điều khoản đó lại
nhằm đạt được mục đích là quyền sở hữu tài sản. Đây là mục đích của giao
dịch mà các bên hướng tới. Tuy nhiên trong thực tiễn không phải bao giờ
các chủ thể cũng có cùng mục đích. Có những trường hợp người mua muốn
được sở hữu tài sản nhưng người bán không có mục đích đó mà vì một mục
đích khác, đó là họ bán tài sản để trốn tránh việc kê biên tài sản, người bị kê
biên tài sản bán hết tài sản của mình, trường hợp này người bán không phải
muốn chuyển quyền sở hữu cho bên mua. Mục đích này là trái pháp luật.
Để hợp đồng dân sự có hiệu lực pháp luật thì mục đích và nội dung của hợp
đồng không trái pháp luật, đạo đức xã hội. Điều cấm của pháp luật là những
quy định của pháp luật không cho phép chủ thể thực hiện những hành vi
nhất định. Đạo đức xã hội là những chuẩn mực ứng xử chung giữa người với
người trong đời sống xã hội, được cộng đồng thừa nhận và tôn trọng. Chỉ
những tài sản được phép giao dịch, những công việc được phép thực hiện
không vi phạm điều cấm của pháp luật, không trái đạo đức xã hội mới là đối
tượng của giao dịch dân sự. Những hợp đồng xác lập nhằm trốn tránh pháp
luật hoặc trái đạo đức xã hội là những giao dịch có mục đích và nội dung
không hợp pháp, không làm phát sinh hiệu lực pháp luật của giao dịch đó.
c. Người tham gia hợp đồng dân sự hoàn toàn tự nguyện
Bản chất của hợp đồng dân sự là sự thống nhất giữa ý chí và bày tỏ ý chí,
cho nên “tự nguyện” bao gồm các yếu tố cấu thành là tự do ý chí và bày tỏ ý
chí. Không có tự do ý chí và bày tỏ ý chí không thể có tự nguyện, nếu một
trong hai yếu tố này không có hoặc không thống nhất cũng không thể có tự
nguyện. Sự tự nguyện của các bên trong một quan hệ dân sự (hợp đồng) là
một trong các nguyên tắc được quy định tại Điều 4 BLDS: Tự do, tự nguyện
cam kết, thoả thuận. Vi phạm sự tự nguyện của chủ thể là vi phạm pháp luật.
Vì vậy, hợp đồng dân sự thiếu sự tự nguyện không làm phát sinh hậu quả
pháp lí. Bộ luật dân sự quy định một số trường hợp giao dịch xác lập không
có sự tự nguyện sẽ bị vô hiệu. Đó là các trường hợp vô hiệu do giả tạo, do
nhầm lẫn, do bị lừa dối, bị đe doạ, do xác lập tại thời điểm mà không nhận
thức và làm chủ được hành vi của mình.
Về lý thuyết, có thể phân chia thành hai loại vô hiệu của giao dịch: đó là
giao dịch đương nhiên vô hiệu (hay còn gọi là giao dịch vô hiệu tuyệt đối)
và giao dịch dân sự vô hiệu theo đề nghị của người có quyền, lợi ích liên
quan ( hay còn gọi là giao dịch vô hiệu tương đối). Nếu không có đề nghị
hoặc có đề nghị nhưng không được Toà án chấp nhận thì giao dịch vẫn có
hiệu lực pháp luật. Bộ luật dân sự quy định 7 trường hợp giao dịch dân sự vô
hiệu
Một giao dịch dân sự bị coi là vô hiệu tuyệt đối trong các trường hợp sau: a)
Khi vi phạm vào các điều cấm của pháp luật, trái với đạo đức của xã hội
(Điều 128 BLDS); b) Khi giao dịch được xác lập một cách giả tạo nhằm che
giấu một giao dịch khác hoặc nhằm trốn tránh nghĩa vụ đối với người thứ ba
(Điều 129 BLDS); c) Khi hình thức của giao dịch không tuân thủ theo các
quy định bắt buộc của pháp luật (Điều 134 BLDS);
Giao dịch dân sự bị coi là vô hiệu tương đối trong các trường hợp: a) Khi
giao dịch được xác lập bởi người chưa thành niên, người mất năng lực hành
vi dân sự, người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự (Điều 130 BLDS); b) Khi
giao dịch được xác lập do bị nhầm lẫn (Điều 131 BLDS); c) Khi một bên chủ
thể tham gia xác lập giao dịch do bị lừa dối, đe doạ (Điều 132 BLDS); d) Khi
người xác lập giao dịch đủ năng lực hành vi dân sự nhưng đã xác lập giao
dịch tại thời điểm không nhận thức được hành vi của mình (Điều 133 BLDS).
* Hợp đồng dân sự vô hiệu do vi phạm điều cấm của pháp luật, trái đạo
đức xã hội
Điều 128 BLDS quy định giao dịch dân sự vô hiệu do vi phạm điều cấm của
pháp luật, trái đạo đức xã hội cùng những hậu quả pháp lí của giao dịch vô
hiệu dạng này. Vi phạm điều cấm của pháp luật, trái đạo đức xã hội bao gồm
nội dung, mục đích của hợp đồng trái pháp luật và đạo đức xã hội. Hợp đồng
dân sự vi phạm quy định này đương nhiên bị coi là vô hiệu không phụ thuộc
vào ý chí của các bên tham gia giao dịch. Tài sản giao dịch và lợi tức thu
được có thể bị tịch thu, sung quỹ nhà nước (ví dụ: Trong trường hợp mua
bán thuốc phiện, động vật quý hiếm thuộc danh mục cấm ). Trong trường
hợp có thiệt hại mà các bên đều có lỗi, thì họ phải chịu phần thiệt hại tương
ứng với mức độ lỗi của mình. Nếu chỉ một bên có lỗi thì bên đó phải bồi
thường thiệt hại cho bên kia.
* Hợp đồng dân sự vô hiệu do vi phạm các quy định bắt buộc về hình
thức của giao dịch dân sự
Theo nguyên tắc chung thì các chủ thể được tự do lựa chọn hình thức của
hợp đồng dân sự. Chỉ những hợp đồng pháp luật quy định bắt buộc phải thể
hiện bằng văn bản, phải có chứng thực, chứng nhận, đăng kí hoặc xin phép
mà các bên không tuân thủ quy định này mới bị vô hiệu. Khi các bên không
tuân thủ các quy định này và có yêu cầu của một hoặc các bên thì toà án xem
xét và "buộc các bên thực hiện quy định về hình thức của giao dịch trong
một thời hạn nhất định". Việc ấn định thời hạn do toà án quyết định căn cứ
vào hoàn cảnh cụ thể. Việc buộc các bên phải thực hiện và đưa ra thời hạn
thực hiện quy định về hình thức của giao dịch thuộc thẩm quyền và là nghĩa
vụ của toà án. Chỉ khi các bên không thực hiện và hoàn tất các quy định về
hình thức của giao dịch trong thời hạn do toà án quyết định thì giao dịch mới
vô hiệu. Bên có lỗi làm cho giao dịch vô hiệu phải bồi thường thiệt hại.
* Hợp đồng dân sự vô hiệu do giả tạo
Trường hợp vô hiệu do giả tạo có điểm đặc biệt là các bên trong hợp đồng
đó hoàn toàn tự nguyện xác lập hợp đồng nhưng lại cố ý bày tỏ ý chí không
đúng với ý chí đích thực của họ (có sự tự nguyện nhưng không có sự thống
nhất giữa ý chí và bày tỏ ý chí).
Có hai trường hợp giả tạo. Trường hợp thứ nhất là giả tạo nhằm che giấu
một hợp đồng khác. Khi đó hợp đồng giả tạo vô hiệu, còn hợp đồng bị che
giấu vẫn có hiệu lực nếu như hợp đồng bị che giấu đó đáp ứng được đầy đủ
các điều kiện có hiệu lực của giao dịch dân sự. Ví dụ: Giao kết hợp đồng
tặng cho tài sản nhằm che giấu hợp đồng gửi giữ.
Trường hợp thứ hai là hợp đồng giả tạo nhằm trốn tránh nghĩa vụ với người
thứ ba. Ví dụ: Các bên thoả thuận giao kết hợp đồng tặng cho nhưng không
làm phát sinh quyền của người được tặng cho (hợp đồng tưởng tượng) nhằm
trốn tránh việc trả nợ người cho vay trước đó. Khi đó hợp đồng tặng cho giả
tạo đó sẽ bị vô hiệu.
* Hợp đồng dân sự vô hiệu do người chưa thành niên, người mất năng
lực hành vi dân sự, người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự xác lập,
thực hiện
Người không có năng lực hành vi hoặc có năng lực hành vi không đầy đủ
không thể có đủ điều kiện để tự do thể hiện ý chí. Vì vậy, hợp giao dịch dân
sự của họ trong trường hợp này là hợp đồng dân sự phải được xác lập, thực
hiện dưới sự kiểm soát của người khác hoặc do người khác xác lập, thực
hiện. Tuy nhiên, hợp đồng dân sự do những người này xác lập không mặc
nhiên bị coi là vô hiệu mà chỉ vô hiệu khi có yêu cầu của những người đại
diện cho họ. Người đã xác lập giao dịch với những người này không có
quyền yêu cầu đó. Nếu người đại diện của người chưa thành niên, người mất
năng lực hành vi dân sự, người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự không
khởi kiện yêu cầu toà án tuyên bố giao dịch vô hiệu thì hợp đồng dân sự đó
vẫn có hiệu lực pháp luật.
* Hợp đồng dân sự vô hiệu do nhầm lẫn
Nhầm lẫn là việc các bên hình dung sai về nội dung của hợp đồng dân sự mà
tham gia vào giao dịch gây thiệt hại cho mình hoặc cho bên kia. Sự nhầm lẫn
xuất phát từ nhận thức của các bên hoặc phán đoán sai lầm về đối tượng sự
việc, sự nhầm lẫn phải được thể hiện rõ ràng mà căn cứ vào nội dung của
hợp đồng dân sự phải xác định được. Nếu bên bị nhầm lẫn chứng minh được
sự nhầm lẫn của mình thì hợp đồng có thể bị tuyên bố vô hiệu.
Trong nhiều trường hợp, sự nhầm lẫn có thể xảy đến do lỗi của bên đối tác.
Khi một bên có lỗi làm cho bên kia nhầm lẫn về nội dung của hợp đồng mà
xác lập đồng (ví dụ: Không đưa ra chỉ dẫn rõ ràng bằng tiếng Việt về công
dụng của tài sản ) thì bên bị nhầm lẫn có quyền yêu cầu bên kia thay đổi
nội dung của hợp đồng đó. Nếu bên kia không chấp nhận thì bên bị nhầm lẫn
có quyền yêu cầu toà án tuyên bố giao dịch vô hiệu (Điều 131 BLDS năm
2005). Tuy nhiên, lỗi ở đây chỉ có thể là lỗi vô ý. Nếu sự nhầm lẫn do lỗi cố
ý của bên đối tác thì khi đó sẽ thuộc trường hợp vô hiệu do lừa dối.
Xung quanh vấn đề lỗi của các bên trong trường hợp hợp đồng xác lập do
nhầm lẫn, trong lí luận có tồn tại hai cách giải quyết đối ngược nhau. Cách
thứ nhất cho rằng giao dịch có thể bị tuyên bô vô hiệu do nhầm lẫn bất kể do
lỗi của bên nào gây ra (Điều 141 BLDS năm 1995). Nếu bên nào có lỗi sẽ
phải bồi thường thiệt hại cho bên kia. Cách thứ hai cho rằng giao dịch chỉ bị
tuyên bố vô hiệu nếu như sự nhầm lẫn xảy ra do lỗi vô ý của bên đối tác
(Điều 131 BLDS năm 2005). Còn nếu như chính bên bị nhầm lẫn có lỗi thì
hợp đồng không bị vô hiệu, bên nhầm lẫn phải tiếp tục thực hiện hợp đồng.
Theo cách giải quyết thứ nhất là hợp lí hơn, bởi lẽ chỉ cần có sự nhầm lẫn
xảy ra là hợp đồng đã không đáp ứng được yêu cầu về sự thống nhất giữa ý
chí và bày tỏ ý chí, do vậy hợp đồng đã có thể bị tuyên bố vô hiệu. Còn việc
xác định lỗi thuộc về ai là chỉ nhằm giải quyết vấn đề hậu quả phát sinh khi
hợp đồng vô hiệu (bồi thường thiệt hại) mà thôi. Vấn đề này có thể áp dụng
nguyên tắc chung về các điều kiện có hiệu lực của giao dịch để giải quyết
(điểm c khoản 1 Điều 122 BLDS).
* Hợp đồng dân sự vô hiệu do bị lừa dối, đe doạ
Lừa dối là hành vi cố ý của một bên nhằm làm cho bên kia hiểu sai lệch về
chủ thể, tính chất của đối tượng hoặc nội dung của hợp đồng nên đã xác lập
hợp đồng đó (che giấu hành vi bất hợp pháp để hưởng thừa kế theo di chúc;
dùng thủ đoạn nói là vật tốt để bán với giá đắt ).
Đe dọa là hành vi cố ý của một bên hoặc người thứ ba làm cho bên kia sợ
hãi mà phải xác lập, thực hiện hợp đồng nhằm tránh thiệt hại về tính mạng,
sức khỏe, danh dự, uy tín, nhân phẩm, tài sản của mình hoặc của cha, mẹ,
vợ, chồng, con của mình. Tuy nhiên sự đe dọa phải nghiêm trọng và có thực
(không thể là đe dọa tưởng tượng). Hành vi đe doạ có thể được thực hiện từ
phía đối tác cũng có thể từ người thứ ba.
Những hợp đồng dân sự được xác lập do lừa dối, đe dọa chỉ bị vô hiệu khi
có yêu cầu của bên bị lừa dối, bị đe dọa và toà án chấp nhận yêu cầu đó.
Như vậy, những hợp đồng được xác lập do các tác động này vẫn có hiệu lực
nếu không có yêu cầu của bên bị lừa dối, bị đe dọa. Khi hợp đồng bị tuyên
bố vô hiệu, bên lừa dối, đe doạ phải bồi thường những thiệt hại xảy ra đối
với bên bị lừa dối, bị đe doạ.
* Hợp đồng dân sự vô hiệu do người xác lập không nhận thức và làm
chủ được hành vi của mình
Trường hợp này chỉ áp dụng cho những người có năng lực hành vi dân sự.
Tại thời điểm giao kết nếu người đó bị rơi vào tình trạng không nhận thức và
làm chủ được hành vi của mình (ví dụ: say rượu ) thì sau đó chính người đó
có quyền yêu cầu toà án tuyên bố hợp đồng vô hiệu. Việc phân định trách
nhiệm bồi thường thiệt hại phụ thuộc vào lỗi của các bên tham gia hợp đồng.
Tóm lại, các điều kiện có hiệu lực của hợp đồng dân sự là một thể thống
nhất trong mối quan hệ biện chứng. Bởi vậy, xem xét một hợp đồng phải đặt
nó trong tổng thể của mối quan hệ biện chứng này. Nếu hợp đồng vô hiệu
từng phần mà không ảnh hưởng đến các phần khác thì chỉ phần vô hiệu
không có hiệu lực, các phần còn lại vẫn có hiệu lực thi hành.
Đây chỉ là những trường hợp vô hiệu nói chung. Ngoài ra, Điều 411 quy
định về hợp đồng dân sự vô hiệu do có đối tượng không thể thực hiện được,
cụ thể :
Điều 411. Hợp đồng dân sự vô hiệu do có đối tượng không thể thực hiện
được
1. Trong trường hợp ngay từ khi ký kết, hợp đồng có đối tượng không thể
thực hiện được vì lý do khách quan thì hợp đồng này bị vô hiệu.
2. Trong trường hợp khi giao kết hợp đồng mà một bên biết hoặc phải biết về
việc hợp đồng có đối tượng không thể thực hiện được, nhưng không thông
báo cho bên kia biết nên bên kia đã giao kết hợp đồng thì phải bồi thường
thiệt hại cho bên kia, trừ trường hợp bên kia biết hoặc phải biết về việc hợp
đồng có đối tượng không thể thực hiện được.
3. Quy định tại khoản 2 Điều này cũng được áp dụng đối với trường hợp hợp
đồng có một hoặc nhiều phần đối tượng không thể thực hiện được, nhưng
phần còn lại của hợp đồng vẫn có giá trị pháp lý.
Trong trường hợp ngay từ thời điểm ký kết, hợp đồng có đối tượng không
thể thực hiện được vì lý do khách quan thì hợp đồng này bị vô hiệu. Trong
trường hợp khi giao kết hợp đồng mà một bên biết hoặc phải biết về việc
hợp đồng có đối tượng không thể thực hiện được, nhưng không thông báo
cho bên kia biết nên bên kia đã giao kết hợp đồng thì phải bồi thường thiệt
hại cho bên kia, trừ trường hợp bên kia biết hoặc phải biết về việc hợp đồng
có đối tượng không thể thực hiện được.Quy định này cũng được áp dụng đối
với trường hợp hợp đồng có một hoặc nhiều phần đối tượng không thể thực
hiện được, nhưng phần còn lại của hợp đồng vẫn có giá trị pháp lý. Đồng
thời, BLDS năm 2005 giải quyết mối quan hệ giữa vô hiệu của hợp đồng
chính và vô hiệu của hợp đồng phụ, trong đó sự vô hiệu của hợp đồng chính
làm chấm dứt hợp đồng phụ, trừ trường hợp các bên có thoả thuận hợp đồng
phụ được thay thế hợp đồng chính. Quy định này không áp dụng đối với các
biện pháp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự. Sự vô hiệu của hợp đồng phụ
không làm chấm dứt hợp đồng chính, trừ trường hợp các bên thoả thuận hợp
đồng phụ là một phần không thể tách rời của hợp đồng chính.
Thời hiệu yêu cầu Toà án tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu tại Điều 136
được áp dụng đối với yêu cầu Toà án tuyên bố hợp đồng vô hiệu, vì hợp
đồng là một loại phổ biến của giao dịch dân sự. Xuất phát từ đó, thời hiệu
yêu cầu Toà án tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu được quy định tại các điều
từ Điều 130 đến Điều 134 của BLDS năm 2005 là hai năm, kể từ ngày giao
dịch dân sự được xác lập. Đối với các giao dịch dân sự được quy định tại
Điều 128 và Điều 129 của BLDS năm 2005 thì thời hiệu yêu cầu Toà án
tuyên bố giao dịch dân sự vô hiệu không bị hạn chế, có nghĩa là yêu cầu Toà
án vào bất kỳ thời điểm nào cũng được.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét