Thứ Tư, 22 tháng 1, 2014

Quan hệ thương mại hàng hoá qua biên giới Việt - Trung.DOC

Cơ sở lý luận và thực tiễn của
thơng mại hàng hoá qua biên giới ở Việt Nam
1.1. Cơ sở lý luận
1.1.1. Các khái niệm, thuật ngữ
1.1.1.1. Khái niệm về thơng mại quốc tế
Từ những năm 380-322 (trớc Công nguyên), thuật ngữ kinh doanh đã đợc
Arixtốt sử dụng và đợc dùng nhiều trong thời kỳ Hy lạp. Sự phát triển của nền
văn minh loài ngời cũng gắn liền với các hoạt động trao đổi, buôn bán. Quan hệ
trao đổi sản phẩm trong từng bộ tộc, từng bản làng, từng vùng dần dần đợc mở
rộng ra khỏi phạm vi quốc gia thành quan hệ thơng mại quốc tế. Đây là một sự
phát triển tất yếu mang tính khách quan. Trong tác phẩm T bản, C.Mác đã
định nghĩa thơng mại quốc tế là sự mở rộng hoạt động thơng mại ra khỏi phạm
vi một nớc. Đó là lĩnh vực trao đổi hàng hoá trên thị trờng thế giới. Thông qua
hoạt động thơng mại quốc tế, các nớc buôn bán những hàng hoá và dịch vụ để
thu lợi nhuận.
Từ xa, ngời ta đã biết nhiều đến sự trao đổi hàng hoá giữa các nớc thông
qua các hoạt động mua và bán qua biên giới . Sau chiến tranh thế giới lần thứ
hai, trật tự kinh tế - chính trị của thế giới đã đợc sắp đặt lại, cùng với sự tiến bộ
và phát triển nh vũ bão về khoa học, công nghệ đã dẫn đến sự phát triển đa dạng
các hình thức quan hệ kinh tế, thơng mại giữa các nớc. Khái niệm kinh tế đối
ngoại đã đợc dùng để chỉ các hoạt động đó. Khái niệm này chủ yếu đợc các nớc
có nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sử dụng, nó bao gồm các hoạt động khác
nhau nh ngoại thơng, hợp tác quốc tế về đầu t và thu hút nguồn vốn đầu t của n-
ớc ngoài, hợp tác quốc tế về khoa học - công nghệ và các hoạt động dịch vụ thu
ngoại tệ. Nh vậy, khái niệm thơng mại quốc tế có nội dung rộng hơn khái niệm
5
ngoại thơng. Đối tợng của nó không chỉ gồm các hàng hoá hữu hình mà còn bao
gồm cả các dịch vụ liên quan đến thơng mại hàng hoá nh dịch vụ kỹ thuật, mua
bán phát minh sáng chế, dịch vụ vận tải và các dịch vụ thơng mại quốc tế khác.
Năm 1948, Hiệp định chung về thuế quan và thơng mại (GATT) đợc ký kết
chủ yếu điều tiết lĩnh vực thơng mại hàng hoá. Từ đó đến nay, thơng mại quốc
tế đã phát triển nhanh chóng, mở rộng sang cả lĩnh vực thơng mại dịch vụ (ngân
hàng, bảo hiểm, vận tải hàng không, vận tải biển, du lịch, xây dựng, t vấn ),
các vấn đề về đầu t có liên quan đến thơng mại và quyền sở hữu trí tuệ.
Trên cơ sở các quy định của GATT, Tổ chức thơng mại thế giới (WTO) ra
đời theo Hiệp định Marrakesh ngày 1 tháng 1 năm 1995 . WTO hoạt động dựa
trên một hệ thống các luật lệ và quy tắc điều chỉnh hầu hết các lĩnh vực thơng
mại quốc tế đợc xây dựng trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản là: Thơng mại
không phân biệt đối xử, chỉ bảo hộ bằng thuế quan, tạo dựng một nền tảng ổn
định cho thơng mại quốc tế, xây dựng quan hệ thơng mại tự do hơn thông qua
đàm phán nhằm phát triển hơn nữa các quan hệ thơng mại quốc tế, đẩy mạnh
tự do hoá thơng mại trên phạm vi toàn cầu.
Với sự ra đời của WTO, khái niệm thơng mại quốc tế đã đợc chuẩn hoá và
sử dụng rộng rãi. Xét về đặc trng thì thơng mại quốc tế đợc định nghĩa là việc
mua, bán hàng hoá và dịch vụ qua biên giới quốc gia. Định nghĩa này đợc sử
dụng nhiều khi xác định vai trò của thơng mại nh chiếc cầu nối về cung và cầu
hàng hoá, dịch vụ xét cả về số lợng, chất lợng và thời gian sản xuất. Khi đề cập
đến thơng mại quốc tế trong bối cảnh hội nhập kinh tế khu vực và thế giới, việc
trao đổi hàng hoá và dịch vụ còn đi kèm với việc trao đổi các yếu tố sản xuất
nh tài nguyên, lao động, vốn Vì vậy, thơng mại quốc tế đợc hiểu là việc mua,
bán hàng hoá và dịch vụ giữa các đối tác có quốc tịch khác nhau (việc mua, bán
không chỉ dừng lại xem xét trên giác độ không gian và địa lý).
6
Hoạt động thơng mại quốc tế đợc tồn tại và phát triển do yêu cầu khách
quan của sự phát triển và xã hội hóa lực lợng sản xuất thế giới dựa trên sự phân
công lao động và sự trao đổi lợi thế so sánh giữa các quốc gia vì mục tiêu phát
triển của các quốc gia đó. Quan hệ thơng mại quốc tế bao gồm toàn bộ các hoạt
động trao đổi, hợp tác giữa các quốc gia, giữa các khối liên kết khu vực trong
lĩnh vực thơng mại dựa trên cơ sở các Hiệp định thơng mại, các cam kết, các
thoả thuận song phơng, đa phơng.
Ngày nay, tự do hoá thơng mại và hội nhập kinh tế quốc tế đang nổi lên nh
một xu thế có tính chất toàn cầu. Các quốc gia trên thế giới đều đang tăng cờng
phát triển thơng mại quốc tế và coi đó nh yêu cầu không thể thiếu để xây dựng
và phát triển kinh tế đất nớc.
1.1.1.2. Khái niệm về thơng mại hàng hoá qua biên giới
Từ xa xa, thơng mại hàng hoá qua biên giới đợc coi là phơng thức mậu
dịch do tập quán truyền thống của lịch sử hình thành, không xếp vào mậu dịch
đối ngoại của quốc gia. Nói chung, các nớc đều giành cho phơng thức mậu dịch
này sự đãi ngộ về thuế hải quan. Theo sự phát triển của mậu dịch quốc gia, th-
ơng mại hàng hoá qua biên giới với nghĩa hẹp nh ở trên đợc phát triển thành ph-
ơng thức mậu dịch theo nghĩa rộng, tức là giao dịch xuất nhập khẩu hàng hoá đ-
ợc tiến hành tại vùng biên giới giữa hai nớc. Nó đợc liệt vào phạm vi mậu dịch
đối ngoại của quốc gia, thuộc một trong những phơng thức mậu dịch xuất nhập
khẩu". [9, Tr.139)
Nh vậy, thơng mại hàng hoá qua biên giới là hoạt động mua bán, trao đổi
hàng hoá đợc diễn ra giữa c dân và doanh nghiệp hai nớc tại khu vực biên giới
của các nớc láng giềng. Theo nghĩa rộng, thơng mại hàng hoá qua biên giới
giữa hai nớc láng giềng không chỉ đơn thuần là hoạt động buôn bán hàng hoá
tại các cửa khẩu biên giới mà nó có phạm vi rộng hơn, bao trùm các hoạt động
xuất nhập khẩu hàng hoá đợc diễn ra trên toàn bộ khu vực biên giới của hai nớc,
7
bao gồm cả thơng mại chính ngạch, thơng mại tiểu ngạch và hoạt động mua bán
của c dân hai nớc dọc biên giới .
1.1.2. Các lý thuyết về lợi thế so sánh và thuế quan trong thơng mại quốc
tế
1.1.2.1. Lý thuyết về lợi thế so sánh
Có thể nói sự phát triển của nhân loại luôn gắn liền với sự phát triển của
hoạt động buôn bán. Từ rất lâu, con ngời đã tìm ra những lợi ích của hoạt động
này giữa các quốc gia. Cách đây hàng ngàn năm, ngời Trung Hoa, ấn Độ đã th-
ờng xuyên đa những sản phẩm độc đáo của mình sang các nớc Châu Âu, Châu
á để trao đổi lấy những thứ mà xứ sở mình không có và họ cũng đã rất sớm tìm
thấy những lợi ích của thơng mại quốc tế. Tuy nhiên, những lý thuyết về lợi ích
của thơng mại quốc tế chỉ thực sự xuất hiện ở thế kỷ XV qua thuyết trọng th-
ơng. Sau đó, ở đầu thế kỷ XVIII, nhà kinh tế học ngời Anh Adam Smith đã phát
triển lý thuyết này thông qua sự khuyến khích tự do thơng mại. Sau này, nhà
kinh tế học nổi tiếng David Ricardo đã đa ra học thuyết về lợi thế so sánh, làm
cơ sở cho việc nghiên cứu thơng mại quốc tế có tính khoa học và tính thực tiễn
hơn. Những nhà khoa học E. Hecksher (1897 - 1952) và O.Hlin (1899 - 1979)
đã tiếp tục phát triển học thuyết lợi thế so sánh và đa học thuyết tới hoàn thiện,
giải thích có tính khoa học hơn về nguyên nhân và lợi ích của thơng mại quốc
tế.
Hoạt động xuất nhập khẩu - một nội dung chủ yếu của thơng mại quốc tế, là
sự trao đổi hàng hoá và dịch vụ diễn ra giữa các nớc, hay giữa các đối tác có
quốc tịch khác nhau. Sự trao đổi đó là biểu hiện của mối quan hệ xã hội và phản
ánh sự phụ thuộc lẫn nhau về kinh tế của các nhà sản xuất và tiêu dùng hàng
hoá riêng biệt ở mỗi quốc gia. Nó đợc quy định bởi sự đa dạng về điều kiện sản
xuất và tiêu dùng giữa các nớc. Bởi vậy, hoạt động xuất nhập khẩu nói riêng và
quan hệ thơng mại nói chung luôn gắn liền với sự phát triển của xã hội loài ng-
8
ời. Qua từng thời kỳ lịch sử, các nhà kinh tế học đã nghiên cứu về nguồn gốc,
lợi ích của thơng mại quốc tế để tìm ra bản chất của quan hệ này.
Lý thuyết của trờng phái trọng thơng
Vào khoảng những năm 1450, phơng thức sản xuất phong kiến tan rã, ph-
ơng thức sản xuất TBCN ra đời. Trong thời kỳ đầu của phơng thức sản xuất
TBCN, vì sản xuất cha phát triển, để có tiền tệ tích luỹ phải thông qua hoạt
động ngoại thơng, mua bán trao đổi, nhất là sự trao đổi không ngang giá giữa
các nớc t bản với các nớc thuộc địa. Đặc biệt, khi khám phá ra Châu Mỹ, một là
sóng du thơng phát triển mạnh mẽ nhằm chuyển vàng từ Châu Mỹ về Châu Âu.
Vai trò của t bản thơng nghiệp lúc bấy giờ đợc đề cao. Thực tiễn đã đòi hỏi phải
có lý thuyết kinh tế hớng dẫn hoạt động thơng nghiệp. Học thuyết kinh tế trọng
thơng ra đời.
Theo học thuyết kinh tế trọng thơng, tiền tệ là tiêu chuẩn cơ bản của của
cải, hàng hoá chỉ là phơng tiện làm tăng khối lợng tiền tệ. Để có tiền tệ phải
thông qua hoạt động thơng mại quốc tế, mà trớc hết là ngoại thơng. Trong ngoại
thơng phải thực hiện xuất siêu, phần lợi nhuận có đợc là do mua ít, bán nhiều,
mua rẻ, bán đắt mà có.
Là t tởng kinh tế của giai cấp t sản trong thời kỳ tích luỹ nguyên thủy t bản,
chủ nghĩa trọng thơng mặc dù cha biết đến các quy luật kinh tế, hạn chế về tính
lý luận, đặc biệt cha chỉ ra cơ sở hay nguyên nhân cho hoạt động ngoại thơng
nhng đã có những đóng góp nhất định về lý luận khi chỉ ra vai trò của ngoại th-
ơng đối với sự phát triển kinh tế và t tởng nhà nớc cần can thiệp vào nền kinh tế
nh: Nhà nớc nắm độc quyền ngoại thơng, Nhà nớc tạo ra các điều kiện pháp lý
và các rào cản cho các công ty thơng mại độc quyền buôn bán với nớc ngoài.
Lý thuyết "lợi thế tuyệt đối" của Adam Smith (1723-1790)
Từ cuối thế kỷ XVI, cùng với sự phát triển của chủ nghĩa t bản, các học
thuyết kinh tế của các trờng phái ra đời để giải thích các hiện tợng kinh tế - xã
9
hội. Đầu tiên, Adam Smith - nhà kinh tế học tiêu biểu của trờng phái Cổ điển
Anh, đã đa ra lý thuyết về lợi thế tuyệt đối trong thơng mại quốc tế. Theo ông,
thơng mại quốc tế bắt nguồn từ nguyên tắc phân công quốc tế . Ông là nhà kinh
tế học đầu tiên trên thế giới nhận thức về vai trò của chuyên môn hoá (mà ông
gọi là phân công quốc tế), tiến bộ kỹ thuật và đầu t là những động lực phát triển
kinh tế. Adam Smith đã phát triển học thuyết lợi thế tơng đối và quan niệm
tiêu chuẩn quyết định cho sự lựa chọn ngành cần chuyên môn hoá trong phân
công quốc tế là điều kiện tự nhiên về địa lý, khí hậu, nguồn tài nguyên chỉ nớc
đó mới có mà thôi. Nói cách khác, sự khác nhau về điều kiện tự nhiên là nguyên
nhân của mậu dịch quốc tế và nó có tác dụng quyết định cơ cấu mậu dịch quốc
tế. Từ lập luận đó, ông ủng hộ tự do kinh doanh, vì mỗi cá nhân và doanh
nghiệp đều có mục đích thu lợi nhuận tối đa, do đó cho phép tự do kinh doanh
sẽ đem lại lợi ích cho toàn xã hội.
Nh vậy, lợi thế tuyệt đối có thể đạt đợc cho nền kinh tế quốc dân qua sự
phân công lao động quốc tế nếu một quốc gia tập trung vào sản xuất và xuất
khẩu những loại hàng hoá mà chi phí lao động xã hội để sản xuất ra chúng nằm
dới mức trung bình quốc tế và nhập khẩu những hàng hoá mà việc sản xuất ra
chúng ở trong nớc có tình hình ngợc lại.
Trên thực tế, lợi thế tuyệt đối của mỗi quốc gia không có nhiều, trong nhiều
trờng hợp quốc gia đó lại không có lợi thế tuyệt đối so với quốc gia khác và đại
bộ phận nền thơng mại thế giới là sự hợp tác quốc tế không phải chỉ dựa trên lợi
thế tuyệt đối mà phải dựa trên một lợi thế bao quát hơn, đó là lợi thế tơng đối.
Lý thuyết "lợi thế so sánh" (hay lợi thế tơng đối)
Năm 1815, trong tác phẩm Tiểu luận về buôn bán ngoại thơng ngũ cốc,
nhà kinh tế R.Forens đã phát triển t tởng lợi thế tuyệt đối thành t tởng lợi thế
tơng đối hay lợi thế so sánh.
10
Hai năm sau, David Ricardo (1772-1823) tiếp tục phát triển t tởng lợi thế
so sánh thành thuyết lợi thế so sánh hoặc cũng đợc gọi là quy luật lợi thế t-
ơng đối (tác phẩm: Những nguyên lý cơ bản của chính sách kinh tế và thuế
khoá hay Những nguyên lý của kinh tế chính trị học). Ông lập luận: Nếu
một quốc gia có hiệu quả thấp hơn so với quốc gia khác trong sản xuất và xuất
khẩu hầu hết các loại sản phẩm thì quốc gia đó vẫn có thể tham gia vào thơng
mại quốc tế để tạo ra lợi ích cho mình. Theo ông, tất cả các quốc gia ở bất kỳ
trình độ và điều kiện sản xuất nào, khi tham gia vào thơng mại quốc tế thì đều
có lợi. Khi tham gia vào thơng mại quốc tế, quốc gia có hiệu quả thấp trong
việc sản xuất tất cả các loại hàng hoá sẽ chuyên môn hoá sản xuất và xuất khẩu
loại hàng hoá nào mà việc sản xuất chúng ít bất lợi nhất (đó là những hàng hoá
có lợi thế tơng đối), và nhập khẩu các loại hàng hoá mà việc sản xuất ra chúng ở
trong nớc là bất lợi nhất (đó là những hàng hoá không có lợi thế tơng đối).
Cơ sở của lý thuyết này chính là luận điểm của Ricardo về sự khác biệt
giữa các nớc không chỉ về điều kiện tự nhiên mà còn về điều kiện sản xuất nói
chung. Điều này có nghĩa là bất kỳ quốc gia nào cũng có thể tiến hành sản xuất
mọi sản phẩm, dù có hay không có các điều kiện tự nhiên, khí hậu phù hợp. Khi
nghiên cứu quy luật về lợi thế tơng đối, D.Ricardo đã cho rằng những ngành sản
xuất khác nhau sẽ có cơ cấu lao động khác nhau, hàm lợng lao động kết tinh
trong các loại hàng hoá khác nhau. Việc so sánh hàm lợng lao động của những
mặt hàng khác nhau sẽ dẫn đến các sai lệch về giá trị tơng đối bởi vì việc sản
xuất ra những mặt hàng đòi hỏi tỷ trọng khác nhau về các yếu tố sản xuất.
Đến năm 1939, Haberler đa ra lý thuyết chi phí cơ hội để chứng minh cho
quy luật lợi thế tơng đối một cách rõ ràng. Theo lập luận của Heberler, quy luật
lợi thế tơng đối đôi khi đợc coi nh là quy luật chi phí cơ hội. Theo lý thuyết này,
chi phí cơ hội của một mặt hàng là số lợng những mặt hàng khác mà ngời ta
phải từ bỏ để sản xuất thêm một đơn vị mặt hàng đó. Theo đó, quốc gia nào có
chi phí cơ hội thấp trong sản xuất một hàng hoá nào đó thì quốc gia đó sẽ có lợi
11
thế so sánh hay lợi thế tơng đối trong sản xuất hàng hoá đó và không có lợi thế
trong việc sản xuất hàng hoá kia. Xuất phát từ sự so sánh chi phí sản xuất của
sản phẩm này với chi phí sản xuất của sản phẩm khác đã dẫn đến một kết luận
rằng: Mỗi quốc gia không nên sản xuất tất cả các loại sản phẩm mà chỉ nên tập
trung vào sản xuất một số các sản phẩm có chi phí sản xuất thấp nhất (sản phẩm
có lợi thế tơng đối). Thông qua việc mở rộng sản xuất các sản phẩm chuyên
môn hoá này, các nớc có thể trao đổi những sản phẩm của mình với nớc khác.
Theo lý thuyết lợi thế so sánh, chuyên môn hoá quốc tế không nhất thiết đòi
hỏi phải có lợi thế tuyệt đối mà dựa trên lợi thế tơng đối mà thôi.
Tuy nhiên, luận thuyết Forrens-Ricardo về lợi thế tơng đối mới chỉ ra đợc
cơ sở và nguyên tắc của sự trao đổi và phân công lao động quốc tế mà cha chỉ ra
đợc cơ chế hoạt động trên thực tế của nguyên lý lợi thế tơng đối nh thế nào.
Vào những thập kỷ đầu của thế kỷ XX, dới tác động của nhiều nhân tố mà tr-
ớc hết là những biến đổi sâu sắc của cách mạng khoa học kỹ thuật thế giới và phân
công lao động quốc tế, năm 1919 và năm 1935, hai nhà kinh tế học ngời Thuỵ
Điển là E.Heckcher (1897-1952) và B.Ohlin (1899-1979) đã tiếp tục hoàn chỉnh lý
thuyết lợi thế so sánh, bổ sung thêm các luận điểm mới của mình khi xem xét tới
chi phí cơ hội và quy luật tỷ lệ cân đối các yếu tố sản xuất, chỉ ra cơ chế hoạt động
của quy luật lợi thế tơng đối bằng định lý về sự cân bằng giá cả của các yếu tố
sản xuất. Hai ông dã bổ sung một mô hình mới, trong đó đề cập đến hai yếu tố đầu
vào là lao động và vốn với những giả thiết (mô hình 2 x 2) nh sau:
Có hai quốc gia:
+ Cùng sản xuất hai loại hàng hoá X và Y bằng hai yếu tố sản xuất là lao
động và vốn với cùng một kỹ thuật công nghệ nh nhau.
+ Hàng hoá X là loại hàng hoá sử dụng nhiều lao động, và hàng hoá Y là
hàng hoá sử dụng nhiều vốn ở cả hai quốc gia.
+ Không có sự chuyên môn hoá trong sản xuất.
12
+ Thị trờng các yếu tố sản xuất và thị trờng hàng hoá là các thị trờng cạnh
tranh hoàn hảo.
+ Có sự chuyển dịch linh hoạt các yếu tố sản xuất trong phạm vi một quốc
gia nhng không có sự chuyển dịch trong phạm vi quốc tế.
+ Tài nguyên đợc sử dụng triệt để ở cả hai quốc gia.
+ Trong mô hình không xét đến các loại chi phí khác nh chi phí vận tải,
thuế nhập khẩu hoặc các trở ngại khác cho thơng mại quốc tế tự do.
Với những giả định nh trên, định lý Heckcher-Ohlin (H-O) đợc phát biểu
nh sau: Một nớc sẽ xuất khẩu hàng hoá mà việc sản xuất nó cần sử dụng nhiều
yếu tố rẻ và tơng đối phong phú của nớc đó; và nhập khẩu loại hàng hoá mà
việc sản xuất nó cần nhiều yếu tố đắt và tơng đối khan hiếm ở nớc đó. Nói vắn
tắt, một nớc tơng đối giầu lao động sẽ xuất khẩu hàng hoá sử dụng nhiều lao
động và nhập khẩu hàng hoá sử dụng nhiều vốn.
Với các giả thiết nh trên, quốc gia thứ nhất là quốc gia giàu lao động và lao
động là yếu tố sản xuất tơng đối rẻ, sẽ xuất khẩu hàng hoá X vì sản xuất hàng
hoá đó cần sử dụng nhiều lao động. Còn quốc gia thứ hai sẽ xuất khẩu hàng hoá
Y vì sản xuất hàng hoá Y sử dụng nhiều vốn, mà vốn là yếu tố sản xuất tơng đối
sẵn có ở quốc gia này. Về bản chất, học thuyết Heckcher-Ohlin căn cứ vào sự
khác biệt về giá cả tơng đối của hàng hoá giữa các quốc gia để giải thích về
nguồn gốc của thơng mại quốc tế.
Mô hình H - O là thuyết hiện đại giải thích về nguồn gốc thơng mại quốc
tế. Lý thuyết này đợc các nhà kinh tế học nổi tiếng nh Rybczynski, Woelfgang
Stolper, Paul Samuelson, James William tiếp tục mở rộng và phát triển hơn để
khẳng định những t tởng khoa học và giá trị thực tiễn to lớn của định lý H - O.
Mô hình H - O đã đợc phát triển rộng rãi và sử dụng trong việc phân tích
các vấn đề thơng mại và tăng trởng, thơng mại và phân phối thu nhập. Tuy
13
nhiên, trớc thực tiễn phát triển rất phức tạp của thơng mại quốc tế hiện nay, mô
hình này vẫn cha hoàn toàn đáp ứng đợc về mặt lý luận. Nhng về cơ bản lý
thuyết này vẫn đang cho phép lý giải các động thái của thơng mại quốc tế và có
ý nghĩa thực tiễn quan trọng đối với các nớc đang phát triển trong quá trình
tham gia và hội nhập thơng mại quốc tế. Nó đã chỉ ra rằng: Đa số các nớc đang
phát triển là những nớc có nguồn lao động dồi dào nhng lại nghèo về vốn. Do
đó, trong giai đoạn đầu phát triển kinh tế, hay trong giai đoạn đầu của sự nghiệp
CNH đất nớc, nên tập trung phát triển sản xuất và xuất khẩu những loại hàng
hoá sử dụng nhiều lao động. Việc lựa chọn phát triển sản xuất và xuất khẩu các
loại hàng hoá phù hợp với lợi thế so sánh về nguồn lực sản xuất của mình sẽ là
điều kiện cần thiết để các nớc đang phát triển có thể nhanh chóng hội nhập vào
phân công lao động và hợp tác thơng mại quốc tế. Từ những lợi ích do thơng
mại quốc tế đem lại sẽ thúc đẩy sự tăng trởng và phát triển kinh tế cho đất nớc.
Theo Heckcher và Ohlin, các yếu tố sản xuất đợc xem xét bao gồm lao
động, đất đai và t bản. Căn cứ vào các yếu tố sản xuất, ngày nay các ngành kinh
tế đợc phân ra bốn loại: Ngành sử dụng nhiều lao động; ngành sử dụng nhiều
vật liệu cao; ngành sử dụng nhiều vốn đầu t và ngành sử dụng nhiều khoa học -
công nghệ cao. Cũng trên cơ sở căn cứ vào các yếu tố sản xuất, các quốc gia đ-
ợc chia thành hai nhóm chính: Nhóm các quốc gia có lợi thế về nguồn lao động
và điều kiện tự nhiên (nh đất đai, tài nguyên thiên nhiên, năng lợng ) và nhóm
các quốc gia có lợi thế về vốn, khoa học và công nghệ.
Trên cơ sở những học thuyết kinh tế cho thấy: Sự khác biệt về nguồn lực là
nguồn gốc của thơng mại giữa các nớc và là cơ sở cho nhu cầu phát triển thơng
mại quốc tế. Với một nguồn lực riêng lẻ tơng đối phong phú, việc sản xuất ra
các sản phẩm sử dụng nhiều loại nguồn lực đó sẽ rẻ hơn. Nh vậy, quốc gia đó sẽ
hớng tới xuất khẩu những sản phẩm mà việc sản xuất ra chúng sử dụng nhiều
nguồn lực quốc gia sẵn có phong phú hơn quốc gia khác. Tuy nhiên, có nguồn
lực chỉ quyết định một phần đến phát triển kinh tế, vấn đề là phân phối và sử
14

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét