Thứ Hai, 20 tháng 1, 2014

Phật giáp

Khi Hoàng tử Sidhartha 35 tuổi, một hôm ngài đến ngồi dới gốc cây bồ
đề ở ngoại vi thành phố Gaia thuộc vùng đất của vua Bimbisura, vua nớc
Magadha. Cho đến một hôm có nàng Sudjata, con gái của một nông dân trong
vùng đem cho ngài một bát cơm to nấu bằng sữa. Ăn xong, ngài xuống sông
tắm rửa, rồi trở lại gốc cây bồ đề. Ngài ngồi thiền định và nguyện sẽ không
đứng dậy nếu không tìm ra sự giải thoát về điều bí ẩn của sự đau khổ. Và
Hoàng tử đã ngồi dới gốc cây bồ đề suốt 49 ngày đêm. Bảy tuần lễ đó là cả
một chuỗi ngày đầy thử thách. Để phá sự thiền định của Hoàng tử, con quỹ dữ
Mara tìm mọi cách làm chàng nản chí. Thoạt đầu, quỷ Mara biến thành một sứ
giả đến báo cho Hoàng tử một tin bịa đặt là em trai Hoàng tử là Đevađatta nổi
loạn, bắt nhốt đức vua cha vào ngục và chiếm nàng Yashodrara làm vợ. Thế
nhng tin dữ đó không làm cho Hoàng tử bận tâm. Mara bèn cho gọi các quỷ dữ
tới làm ra ma to, gió lớn gây ra động đất, lụt lội nhng Hoàng tử vẫn ngồi bình
thản dới gốc cây bồ đề, cảm phục trớc ý chí kiên định của Hoàng tử, rắn thần
Naga dùng thân làm tán cho ma gió cho Hoàng tử ngồi. Thấy thế quỷ dữ Mara
bèn dùng biện pháp quyết liệt và tinh tế hơn để công phá vào thành trì kiên
định của Hoàng tử Sidhartha. Nó cho gọi ba cô con gái xinh đẹp của mình là
các nàng Khát vọng, khoái lạc và Dục vọng tới múa nhảy mê hoặc nhà tu hành
trẻ tuổi. Thế nhng biện pháp cuối cùng của quỷ Mara cũng thất bại và lũ quỷ
phải dời khỏi gốc cây bồ đề. Rạng sáng ngày 49, Siddhartha đã tìm ra bí mật
của sự đau khổ, đã tìm ra đợc vì sao thế giới lại tràn đầy khổ đau và đã tìm ra
đợc cách để chiến thắng sự đau khổ. Siddhartha đã hoàn toàn giác ngộ và trở
thành Buddha (Đấng giác ngộ). Sau khi giác ngộ Đức phật còn ngồi tiếp bảy
ngày nữa dới cây bồ đề suy ngẫm về những chân lý diệu kỳ mà mình đã khám
phá. Ngài phân vân không biết có nên phổ biến đạo pháp của mình cho thế giới
không vì có huyền diệu quá khó hiểu quá đối với mọi ngời. Chính thợng đế
Brahma phải giáng trần để khích lệ Đức phật truyền bá đạo pháp của mình cho
thế gian. Chỉ khi đó Phật mới dời khỏi gốc cây bồ đề đi đến khu vờn Lộc Uyển
gần Varanasi để giảng bài thuyết pháp đầu tiên cho năm ngời bạn tu khổ hạnh
của mình. Sự kiện này đợc ghi chép lại nh một sự kiện quan trọng nhất của
Đạo phật và đợc gọi là Phật quay bánh xe Đạo pháp ( chuyển Pháp Luân ).
5
Giáo pháp mới của Đạ phật đã gây ấn tợng mạnh đối với năm nhà tu, họ nhanh
chóng trở thành những môn đồ đầu tiên của Đức Phật. Vài ngày sau số môn đồ
của Phật đã tăng lên 60 ngời, theo thời gian số môn đồ Đạo Phật ngày càng
tăng và các tổ chức tăng gia đã ra đời.
Đến năm 80 tuổi, biết mình tuổi cao, sức yếu, Đức Phật cùng các môn
đồ trở về chân núi Hymalaya nơi ngài sinh ra và lớn lên. Trên đờng Phật đã
chuẩn bị mọi thứ cho các môn đồ để họ có thể tự lập đợc sau khi ngàu viên
tịch. Và, tại một nơi thuộc ngoại vi thành phố Cusinagara, Phật đã ra đi. Câu
nói cuối cùng của Phật là: Hỡi các tì kheo tất cả những gì đang tồn tại rồi sẽ
qua đi. Vậy các ngời càng không nên ngừng gắng sức!.
1.2 Nội dung chủ yếu của t tởng triết học Phật giáo.
T tởng triết lý Phật giáo đợc tập trung trong một khối lợng kinh điển rất
lớn, đợc tổ chức thành ba bộ kinh lớn gọi là tam tạng gồm:
- Tạng Luận: Gồm toàn bộ những giới luật của Phật giáo qui định cho cả
năm bộ phái Phật giáo nh: Tứ phần luật của thợng toạ bộ, Maha tăng kỷ luật
của Đại chúng bộ, căn bản nhất thiết hữu bộ luật Sau này còn thêm các
Bộ luật của Đại Thừa nh An lạc, Phạm Võng.
- Tạng kinh: Chép lời Phật dạy, trong thời kỳ đầu tạng kinh gồm nhiều
tập dới dạng các tiền đề, mỗi tập đợc gọi là một Ahàm.
- Tạng luận: Gồm những bài bình chú, giải thích về giáo pháp của Phật
giáo. Tạng luận gồm bảy bộ thể hiện một cách toàn diện các quan điểm về
giáo pháp của Phật giáo.
T tởng triết học Phật giáo trên hai phơng diện, về bản thể luận và nhân
sinh quan, chứa đựng những t tởng duy vật và biện chứng chất phác.
Phật giáo cho rằng các sự vật và hiện tợng trong vũ trụ ( chử pháp ) là vô
thuỷ, vô chung (vô cùng, vô tận). Tất cả thế giới đều ở quá trình biến đổi liên
tục (vô thờng ) không có một vị thần nào sáng tạo ra vạn vật cả. Tất cả các
Pháp đều thuộc về một giới ( vạn vật đều nằm trong vũ trụ) gọi là Pháp giới.
Mỗi một pháp ( mỗi một sự v iệc hiện tợng, hay một lớp sự việc hiện tợng) đều
ảnh hởng đến toàn Pháp. Nh vậy các sự vật, hiện tợng hay các quá trình của thế
6
giới là luôn luôn tồn tại trong mối liên hệ, tác động qua lại và qui định lẫn
nhau.
Tác phẩm thanh dung thực luận của kinh phật viết rằng: Có ngời cố
chấp là có Đại tự nhiên là bản thể chân thực bao khắp cả, lúc nào cũng thờng
định ra chu pháp
(1)
đạo Phật cho rằng toàn bộ ch pháp đều chi chi phối bởi luật
nhân quả, biến hoá vô thờng, không có cái bản ngã cố định, không có cái thực
thể, không có hình thức nào tồn tại vĩnh viễn cả. Tất cả đều theo luật nhân quả
biến đổi không ngừng và chỉ có sự biến hoá ấy là thờng còn ( vĩnh viễn ). Cái
nhân nhờ có cái duyên mới sinh ra đợc mà thành quả. Quả lại nhờ có duyên
mà thành nhân khác, nhân khác lại thành quả. Quả lại nhờ có duyên mà thành
nhân khác, nhân khác lại nhờ có duyên mà thành quả mới Cứ thế nối nhau
vô cùng vô tận mà thế giới, vạn vật, muôn loài, cứ sinh sinh, hoá hoá mãi.
Nh vậy ngay từ đầu Phật giáo đã đặt ra mục đích giải quyết vấn đề cơ
bản của Triết học một cách biện chứng và duy vật. Phật giáo đã gạt bỏ vai trò
sáng tạo thế giới của các đấng tối cao của Thợng đế và cho rằng bản thể
của thế giới tồn tại khách quan và không do vị thần nào sáng tạo ra cả. Cái bản
thể ấy chính là sự thờng hằng trong vận động của vũ trụ, là muôn ngàn hình
thức của vạn vật trong vận động, nó có mặt trong vạn vật nhng nó không dừng
lại ở bất kỳ hình thức nào. Nó muôn hình vạn trạng nhng lại tuân hành nghiêm
ngặt theo luật nhân quả.
Do qui luật nhân quả mà vạn vật ở trong quá trình biến đổi không
ngừng, thành, trụ, hoại, diệt ( sinh thành, biến đổi, tồn tại, tan rã và diệt vong).
Quá trình đó phổ biến khắp vạn vật, trong vũ trụ, nó là phơng thức thay đổi
chất lợng của sự vật và hiện tợng.
Phật giáo trong quá trình giải thích sự biến hoá vô thờng của vạn vật, đã
xây dựng nền thuyết nhân duyên. trong thuyết nhân duyên có ba khái
niệm chủ yếu là Nhân, Quả và Duyên.
- Cái gì phát động ra ở vật gây ra một hay nhiều kết quả nào đó, đợc gọi
là Nhân.
- Cái gì tập lại từ Nhân đợc gọi là Quả.
1
(1) Dẫn theo Đoàn Chính - Lơng Minh Cừ - LSTH ấn Độ cổ đại 1921
7
- Duyên: Là điều kiện, mối liên hệ, giúp Nhân tạo ra Quả. Duyên không
phải là một cái gì đó cụ thể, xác định mà nó là sự tơng hợp, điều kiện để giúp
cho sự biến chuyển của vạn Pháp.
Ví dụ hạt lúa là cái quả của cây lúa đã thành, mà lại là cái nhân của cây
lúa sắp thành. Lúa muốn thành cây lúa có bông lại phải nhờ có điều kiện và
những mối liên hệ thích hợp nh đất, nớc, không khí, ánh sáng. Những yếu tố
đó chính là Duyên.
Trong thế giới sinh vật, khi đã giải thích về nguyên nhân biến hoá vô th-
ờng của nó, từ quá khứ đến hiện tại, từ hiện đại tới tơng lại. Phật giáo đã trình
bày thuyết Thập Nhị Nhân Duyên ( mời hai quan hệ nhân duyên) đợc coi là
cơ sở của mọi biến đổi trong thế giới hiền sinh, một cách tất yếu của sự liên
kết nghiệp quả.
+ Vô minh: ( là cái không sáng suốt, mông muội, che lấp cái bản nhiên
sáng tỏ).
+ Hành: ( là suy nghĩ mà hành động, do hành động mà tạo nên kết quả,
tạo ra cái nghiệp, cái nếp. Do hành động mà có thức ấy là hành làm quả cho vô
minh và là nhân cho Thức).
+ Thức: ( Là ý thức là biết. Do thức mà có Danh sắc, ấy là Thức làm quả
cho hành và làm nhân cho Danh sắc).
+ Danh sắc: ( Là tên và hành ta đã biết tên ta là gì thì phải có hình và tên
của ta. Do danh sắc mà có Lục xứ, ấy danh sắc làm quả cho thức và làm nhân
cho Lục xứ).
+ Lục xứ hay lục nhập: ( Là sáu chỗ, sáu cảm giác: Mắt, mũi, lỡi, tai,
thân và tri thức. Đã có hình hài có tên phải có Lục xứ để tiếp xúc với vạn vật.
Do Lục nhập mà có xúc - tiếp xúc. ấy là Lục xứ làm quả cho Danh sắc và làm
nhân cho Xúc.)
+ Xúc: ( Là tiếp xúc với ngoại cảnh qua sáu cơ quan xúc giác gây nên
cmở rộng xúc, cảm giác. Do xúc mà có thụ ấy là xúc làm quả cho Lục xứ và
làm nhân cho Thụ.)
+ Thụ: (Là tiếp thu, lĩnh nạp, những tác động bên ngoài tác động vào
mình. Do thụ mà có ái. ấy là thụ làm quả cho Xúc và làm nhân cho ái.)
8
+ ái: (Là yêu, khát vọng, mong muốn, thích. Do ái mà có Thủ. Do ấy, ái
làm quả cho Thụ và làm nhân cho Thủ.)
+ Thủ: ( Là lấy, chiếm đoạt cho minh. Do thủ mà có Hữu. Do vậy mà
Thủ làm quả cho ái và làm nhân cho Hữu.)
+ Hữu: ( Là tồn tại, hiện hữu, ham, muốn, nên có dục gây thành cái
nghiệp. Do Hữu mà có sinh, do đó Hữu là quả của Thủ và làm nhân của Sinh).
+ Sinh: ( Hiện hữu là ta sinh ra ở thế gian làm thần thánh, làm ngời, làm
súc sinh. Do sinh mà có Tử, ấy là sinh làm quả cho Hữu và làm nhân cho Tử).
+ Lão tử: ( Là già và chết, đã sinh ra là phải già yếu mà đã già là phải
chết. Nhng chết - sống là hai mặt đối lập nhau không tách rời nhau. Thể xác
tan đi là hết nhng linh hồn vẫn ở trong vòng vô minh. Cho nên lại mang cái
nghiệp rơi vào vòng luân hồi ( khổ não).
Thập nhị nhân duyên nh nớc chảy kế tiếp nhau không bao giờ cạn,
không bao giờ ngừng, nên đạo Phật là Duyên Hà. Các nhân duyên tự tập nhau
lại mà sinh mãi mãi gọ là Duyên hà mãn. Đoạn này do các duyên mà làm quả
cho đoạn trớc, rồi lại do các duyên mà làm nhân cho đoạn sau. Bởi 12 nhân
Duyên mà vạn vật cứ sinh hoá vô thờng.
- Mối quan hệ Nhân - Duyên là mối quan hệ biện chứng trong không
gian và thời gian giữa vạn vật. Mối quan hệ đó bao trùm lên toàn bộ thế giới
không tính đến cái lớn nhỏ, không tính đến sự giản đơn hay phức tạp. Một hạt
cát nhỏ đợc tạo thành trong mối quan hệ nhân quả của toàn vũ trụ. Cả vũ trụ
hoà hơp tạo nên nó. Cũng nh nó hoà hợp tạo nên cả vũ trụ bao la. Trong một có
tất cả trong tất cả có một. Do nhân Duyên mà vạn vật sinh hay diệt. Duyên hợp
thì sinh, Duyên tan thì diệt.
Vạn vât sinh hoá vô cùng là do ở các duyên tan hợp, hợp tan nối nhau
mà ra. Nên vạn vật chỉ tồn tại ở dạng tơng đối, trong dòng biến hoá vô tận vô
thờng vô thực thể, vô bản ngã, chỉ là h ảo. Chỉ có sự biến đổi vô thờng của vạn
vật, vạn sự theo nhân duyên là thờng còn không thay đổi.
Do vậy toàn bộ thế giới đa dạng, phong phú, nhiều hình, nhiều vẻ cũng
chỉ là dòng biến hoá h ảo vô cùng, không có gì là thờng định, là thực, là không
thực có sinh, có diệt, có ngời, có mình, có cảnh, có vật, có không gian, có thời
9
gian. Đó chính là cái chân lý cho ta thấy đợc cái chân thế tuyệt đối của vũ trụ.
Thấy đợc điều đó gọi là chân nh là đạt tới cõi hạnh phúc, cực lạc, không
sinh, không diệt, niết bàn.
Thế giới của chúng sinh (loài ngời) cũng do nhân duyên kết hợp mà
thành. Đó là sự kết hợp của hai thành phần: Phần sinh lý và phần tâm lý.
- Cái tôi sinh lý tức là thể xác, hình chất với yếu tố sắc ( địa, thuỷ,
hoá, phong ) tức là cái cảm giác đợc.
- Cái tôi tâm lý ( tinh thần ) linh hồn tức là tâm với 4 yếu tố chỉ có tên
gọi mà không có hình chất gọi là Danh.
Trong Sắc gồm những cái nhìn thấy đợc cũng nh những thứ không
nhìn thấy đợc nếu nó nằm trong quá trình biến đổi của sắc gọi là vô biến
sắc nh vật chất chuyển hoá thành năng lợng chẳng hạn.
Bốn yếu tố do nhân duyên tạo thành phần tâm lý ( tinh thần ) của con
ngời là:
+ Thụ: Những cảm giác, cảm thụ về khổ hay sớng, đa đến sự xúc chạm
lĩnh hội thân hay tâm.
+ Tởng: Suy nghĩ, t tởng.
+ Hành: ý muốn thúc đẩy hành động.
+ Thức: Nhận thức, phân biệt đối tợng tâm lý ta là ta.
Hai thành phần tạo nên từ ngũ uẩn do Nhân - Duyên tạo thành mỗi sinh
vật cụ thể có danh và có sắc. Duyên hợp ngũ uẩn thì là ta. Duyên tan ngũ uẩn
thì là diệt. Quá trình hợp tan ngũ uẩn do Nhân - Duyên là vô cùng tận.
- Các yếu tố của ngũ uẩn cũng luôn luôn biến hoá theo qui luật nhân hoá
không ngừng không nghỉ, nên mọi sinh vật cũng chỉ là vụt mất, vụt còn.
Không có sự vật riêng biệt, cố định, không có cái tôi, cái tôi hôm qua không
còn là cái tôi hôm nay. Kinh Phật có đoạn viết Sắc chẳng khác không, không
chẳng khác sắc, sắc là không, không là sắc. Thụ, Tởng, Hành, Thức cũng đều
nh thế.
Nh vậy thế giới là biến ảo vô thờng, vô định. Chỉ có những cái đó mới là
chân thực, vĩnh viễn, thờng hằng. Nếu không nhận thức đợc nó thì con ngời sẽ
lầm tởng ta tồn tại mãi mãi, cái gì cũng thờng định, cái gì cũng của ta. Do đó,
10
mà con ngời cứ khát ái, tham dục cứ mong muốn và hành động chiếm đoạt tạo
ra kết quả mà kết quả đó có thể tốt, có thể xấu gây nên nghiệp báo, rơi vào bể
khổ triền miên không bao giờ dứt.
Sở dĩ có nỗi khổ là do qui định của Luật nhân quả. Vì thế mà ta không
thấy đợc cái luật nhân bản của mình ( bản thể chân thực ). Khi đã mắc vào sự
chi phối của Luật Nhân - Duyên, thì phải chịu nghiệp báo và kiếp luân hồi,
luân chuyển tuần hoàn không ngừng, không dứt.
Nghiệp và luân hồi không những chỉ là những khái niệm của Triết học
Phật giáo mà có từ trong Upanishad.
Nghiệp chữ phạn và Karma là cái do những hoạt động của ta, do hậu
quả việc làm của ta, do hành động của thân thể ta. Đợc gọi là thân nghiệp,
còn hậu quả của những lời nói của ta, phát ngôn của ta thì đợc gọi làg khẩu
nghiệp. Hay những cái do ý nghĩ của ta, do tâm tue của ta gây nên đợc gọi là
ý nghiệp. Tất cả những thân nghiệp, khẩu nghiệp, ý nghiệp là do ta tham dục
mà thành, do ta muốn thoả mãn tham vọng của mình gây nên. Sở dĩ ta tham
dục vì ta cha hiểu đơc chân bản vốn có của ta cũng nh vạn vật là luôn luôn biến
đổi không có gì là thờng định và vĩnh viễn cả.
Cuộc đời con ngời là sự ghánh chịu hậu quả của nghiệp đơng thời và các
kiếp sống trớc rồi nó tiếp tục chi phối cả đời sau.
Nghiệp báo trong một đời là sự tổng hợp của các nghiệp gây ra trong
hiện tại cộng với các nghiệp gây ra trong quá khứ, nó quyết định đời sau xấu
hay tốt, thiện hay ác.
Luân hồi: Chữ phạn là Samsara. Có nghĩa là bánh xe quay tròn. Đạo
phật cho rằng, sau khi một thể xác sinh vật nào đó chết thì linh hồn sẽ tách ra
khỏi thể xác và đầu thai vào một sinh vật khác nhập vào một thể xác khác (có
thể là con ngời, loài vật thậm chí cỏ cây). Cứ thế mãi do kết quả, quả báo hành
động của những kiếp trớc gây ra. Đó cũng là cách lý giải căn nguyên nỗi khổ ở
đời con ngời.
Sau khi lý giải đợc nỗi khổ ở cuộc đời con ngời là do thập nhị nhân
duyên làm cho con ngời rơi vào bể trầm luân. Đạo Phật đã chủ chơng tìm con
11
đờng diệt khổ. Con đờng giải thoát đó không những đòi hỏi ta nhận thức đợc
nó mà cao hơn ta phải hành động, phải thấm nhuần tứ diệu đế.
Tứ diệu đế: Là bốn sự thật chắc chắn, bốn chân lý lớn, đòi hỏi chúng
sinh phải thấu hiểu và thực hiện nó. Tứ diệu đế gồm:
1. Khổ đế: Con ngời và vạn vật sinh ra là khổ, ốm đau là khổ, già yếu là
khổ, chết là khổ, ghét nhau mà phải sống gần nhau là khổ, yêu nhau mà phải
chia lìa nhau là khổ, mất là khổ mà đợc cũng là khổ. Những nỗi khổ ấy từ
đâu? chúng ta tiếp tục tìm hiểu Tập đế.
2. Tập đế: Tập là tập hợp, tụ tập lại mà thành. Vậy do những gì tụ tập lại
mà tạo ra nỗi khổ cho chúng sinh?
Đó là do con ngời có lòng tham, dâm (giận dữ ), si ( si mê, cuồng mê,
mê muội) và dục vọng. Lòng tham và dục vọng của con ngời xâu xé là do con
ngời không nắm đợc nhân duyên. Vốn nh là một định luật chi phối toàn vũ trụ.
Chúng sinh khômg biết rằng mọi cái là ảo ảnh, sắc sắc, không không. Cái tôi t-
ởng là có nhng thực là không. Vì không hiểu đợc ra nỗi khổ triền miên, từ đời
này qua đời khác.
3. Diệt đế: Là phải thấu hiểu đợc Thập nhị nhân duyên để tìm ra đợc
căn nguyên của sự khổ - để dứt bỏ từ ngọn cho đến gốc rễ của cái khổ. Thực
chất là thoát khỏi nghiệp chớng, luân hồi, sinh tử.
4. Đạo đế: Là con ngời ta phải theo đế diệt khổ, phải đào sâu suy nghĩ
trong thế giới nội tâm ( thực nghiệm tâm linh ). Tuy luyện tâm trí, đặc biệt là
thực hành YOGA để đạt tới cõi siêu phàm mà cao nhất là đạt tới cõi phận là
đạt tới trình độ giác ngộ bát nhã. Tới chừng đó sẽ thấy đợc chân nh và thanh
thản tuyệt đối, hết ham muốn, hết tham vọng tầm thờng, tức là đạt tới cói niết
bàn không sinh, không diệt.
Thực hiện Đạo đế là một quá trình lâu dài, kiên trì, giữ nguyên giới luật
tập trung thiên định cao độ Phật giáo đã trình bày 8 con đờng hay 8 nguyên tắc
( Bát chính Đạo - buộc ta phải tuân thủ bát chính đạo gồm:
- Chính kiến: Phải nhận thức đúng, phân biệt đợc phải trái, không để cho
những cái sai che lấp sự sáng suốt.
- Chính t duy: Suy nghĩ phải, phải chính, phải đúng đắn.
12
- Chính nghiệp: Hành động phải chân chính, phải đúng đắn.
- Chính ngữ: Nói phải đúng, không gian dối, không vu oan cho ngời
khác.
- Chính mệnh: Sống trung thực, không tham lam, vụ lợi, gian tà, không
đợc bỏ điều nhân nghĩa.
- Chính tịnh tiến: Phải nỗ lực, siêng năng học tập, có ý thức vơn lên để
đạt tới chân lý.
- Chính niệm: Phải luôn luôn hớng về đạo lý chân chính, không nghĩ
đến những điều bạo ngợc gian ác.
- Chính định: Kiên định tập trung t tởng vào con đờng chính, không bị
thoái chí, lay chuyển trớc mọi cán dỗ.
Muốn thực hiện đợc Bát chính đạo thì phải có phơng pháp để thực
hiện nhằm ngăn ngừa những điều gian ác gây thiệt hại cho mình và những ngời
làm điều thiện có lợi ích cho mình và cho ngời. Nội dung của các phơng pháp
đó là thực hiện Ngũ giới ( năm điều răn ) và Lục độ (Sáu phép tu ).
- Ngũ giới gồm:
+ Bất sát: Không sát sinh
+ Bất đạo: Không làm điều phi nghĩa.
+ Bất dâm: Không dâm dục.
+ Bất vọng ngữ: Không bịa đặt, không vu oan giáo hoạ cho kẻ
khác, không nói dối.
- Lục độ gồm:
+ Bố thí: Đêm công sức, tài trí, của cải để giúp ngời một cách
thành thực chứ không để cầu lợi hoặc ban ơn.
+ Trí giới: Trung thành với điều răn, kiên trì tu luyện.
+ Nhẫn nhục: Phải biết kiên nhẫn, nhờng nhịn, chịu đựng để làm
chủ đợc mình.
+ Tịnh tiến: Cố gắng nỗ lực vơn lên.
+ Thiền định: T tởng phải tập trung vào điều ngay, chính không
để cho cái xấu cho lấp.
13
+ Bát nhã: Trí tuệ thấy rõ hết, hiểu thấu hết mọi chuyện trên thế
gian.
Tóm lại: Phật giáo cho rằng chỉ có bằng sự kiên định để thực hiện Bát
hành đạo, Ngũ giới, Lục độ thì chúng sinh mới có thể giải thoát mình ra
khỏi nỗi khổ. Phật giáo không chủ trơng giải phóng bằng cách mạng xã hội.
Mặc dù Phật giáo lên án rất gay gắt chế độ ngời bóc lột ngời, chống lại chủ
nghĩa duy tâm cua Bàlamôn giáo. Đó là một trong những nhợc điểm đồng thời
cũng là u điểm nửa vời của Đạo phật. Đứng trớc bể khổ của chúng sinh Phật
giáo chủ trơng cải tạo tâm linh chứ không phải cải tạo thế giới hiện thực. Nh
vậy Phật giáo nguyên thuỷ có t tởng vô thần, phủ nhận đấng sáng tạo ( vô ngã,
vô tạo giả) và có t tởng biện chứng ( vô thờng, lý thuyết Duyên khởi ). Tuy
nhiên, Triết học Phật giáo cũng thể hiện tính duy tâm chủ quan khi coi thế giới
hiện thực là ảo giả và do cái tâm vô minh của con ngời tạo ra.
1.3 Sự truyền bá Phật giáo trên thế giới
Trớc khi Thích ca Mâu Ni tạ thế, các khu vực truyền bá Đạo Phật chủ
yếu ở miền Trung lu vực Sông Hằng, đặc biệt xung quanh các khu vực thành
phố lớn mới nổi lên. Sau khi ngài tạ thế, các thế kỷ trực tuyến của ngài đã đem
Đạo Phật mở rộng đến hạ lu sông Hằng về phía Đông, phía Nam đến bờ sống
Caođaveri, phía Tây đến bờ biển Arập, phía Bắc tới khu vực Thaiysiro. ở thời
kỳ thống trị của vua Asôca thuộc vơng triều Maurya, Đạo phật bắt đầu phát
triển tới các cùng biển của thứ Đại lục, Đông tới Miama, Nam tới Xrilanca,
Tây tới Xyri, Aicập Nhanh chóng trở thành tôn giáo mang tính thế giới. Sau
khi vơng triều Casan (kushan) hng khởi lại truyền tới Iran, các nơi ở trung tâm
Châu á, rồi qua con đờng tơ lụa truyền vào Trung Quốc.
Các nơi khác: Mấy năm gần đây ở một số nớc nh: Italya, Thuỵ sỹ, thuỵ
Điển, Tiệp Việc nghiên cứu Đạo Phật cũng rất sôi nổi, đã xây dựng nên
không ít cơ sở nghiên cứu Phật giáo và trung tâm nghiên cứu Phật học. Ví dụ
sở nghiên cứu Trung Đông, Viễn Đông Italia, dới sự chủ trì của Đỗ Kỳ đã
biên tập và xuất bản T sách La mã với Đông Phơng ( Đến năm 1977 đã xuất
bản đợc 51 loại ) trong đó bao gồm rất nhiều trớc tác phẩm Phật giáo.
14

Xem chi tiết: Phật giáp


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét