Thứ Năm, 23 tháng 1, 2014

hoạt động kinh doanh xuất khẩu ở Công ty Thương mại Hữu Nghị 2

Quốc gia
Hàng hoá
VIỆT NAM NHẬT BẢN
Vải (m/giờ gia công) 1 6
Gạo (kg/giờ công) 2 4
Mô hình trên cho thấy Nhật Bản có lợi thế tuyệt đối so với Việt Nam
trong việc sản xuất cả hai loại hàng hoá là vải và gạo. Nhưng khi phân tích
cụ thể chúng ta thấy rằng: Trong khi năng suất lao động trong ngành dệt
của Nhật Bản gấp 6 lần năng suất lao động trong ngành dệt của Việt Nam
thì năng suất lao động trong ngành sản xuất gạo của Nhật Bản chỉ cao gấp
2 lần. Như vậy, trong sản xuất giữa gạo và vải thì Nhật Bản có lợi thế
tương đối trong sản xuất vải còn Việt Nam có lợi thế trong sản xuất gạo
( mặc dù về lợi thế tuyệt đối thì Việt Nam không có lợi thế trong sản xuất
mặt hàng nào).
Theo quy luật lợi thế so sánh, thì cả hai quốc gia là Việt Nam và Nhật
Bản đều có lợi thế nếu Việt Nam chuyên môn hoá trong sản xuất gạo còn
Nhật Bản chuyên môn hoá trong sản xuất vải, sau đó tiến hành trao đổi cho
nhau . Nếu tiến hành trao đổi 6m vải lấy 4 kg gạo của Việt Nam thì Nhật
Bản sẽ chẳng có lợi gì cả bởi vì khi mà ngay trong nước họ cũng đã trao
đổi theo tỉ lệ này do đó họ sẽ không trao đổi. Tương tự như vậy, nếu trao
đổi 1m vải lấy 2 kg gạo thì Việt Nam cũng từ chối trao đổi này, bởi vì Việt
Nam sẽ không được lợi gì khi mà ngay trong nước tỷ lệ trao đổi này đang
được diễn ra. Do đó, tỷ lệ trao đổi quốc tế nằm ở khoảng giữa tức là:
2
1
< Tỉ lệ trao đổi quốc tế vải/gạo <
4
6
Bây giờ giả sử trao đổi 1m vải lấy 1 kg gạo. Trong trường hợp này nếu
Nhật Bản trao đổi 6m vải lấy 6 kg gạo thì Nhật Bản sẽ được lợi 2kg gạo
5
hay tiết kiệm được
2
1
giờ công. Còn Việt Nam nhận được 6m vải mà bình
thường Việt Nam phải mất 6 giờ công mới sản xuất được. Nếu 6 giờ công
ấy Việt Nam dành để sản xuất gạo sẽ thu được 12 kg gạo và chỉ phải dùng
6kg gạo để đổi lấy 6m vải và như vậy Việt Nam đã lợi 6 kg gạo hay tiết
kiệm được 3 giờ công.
Qua phân tích ví dụ trên cho thấy, hoạt động xuất khẩu mang lại lợi ích
cho cả hai quốc gia bằng cách xuất khẩu những hàng hoá có lợi thế so sánh
và nhập khẩu những hàng hoá không có lợi thế tương đối. Sự chuyên môn
hoá sản xuất và trao đổi hàng hoá khai thác tốt lợi thế của mỗi quốc gia.
2.Vai trò của hoạt động xuất khẩu đối với nền kinh tế quốc dân.
Xuất khẩu hàng hoá là một hoạt động nằm trong lĩnh vực phân phối và
lưu thông hàng hoá của một quá trình tái sản xuất mở rộng nhằm mục đích
liên kết sản xuất với tiêu dùng của nước này với nước khác. Hoạt động đó
không chỉ diễn ra giữa các cá thể riêng biệt mà là có sự tham gia của toàn
bộ hệ thống kinh tế với sự điều hành của Nhà nước.
Chính vì vậy, nó có vai trò to lớn đến sự phát triển kinh tế xã hội của
mỗi quốc gia. Nền sản xuất xã hội một nước phát triển như thế nào phụ
thuộc rất lớn vào lĩnh vực hoạt động kinh doanh này. Thông qua xuất khẩu
có thể làm gia tăng ngoại tệ thu được, cải thiện cán cân thanh toán, tăng thu
cho ngân sách, kích thích đổi mới công nghệ, cải biến cơ cấu kinh tế, tạo
thêm công ăn việc làm và nâng cao mức sống của người dân.
Đối với những nước mà trình độ phát triển kinh tế còn thấp như nước ta,
những nhân tố tiềm năng là : tài nguyên thiên nhiên và lao động. Còn
những yếu tố thiếu hụt là vốn, kỹ thuật, thị trường và khả năng quản lý.
Chiến lược hướng về xuất khẩu về thực chất là giải pháp mở của nền kinh
tế nhằm tranh thủ vốn và kỹ thuật của nước ngoài, kết hợp chúng lại với
tiềm năng trong nước về lao động và tài nguyên thiên nhiên để tạo ra sự
6
tăng trưởng mạnh cho nền kinh tế, góp phần làm rút ngắn khoảng cách
chênh lệch với các nước khác.
Với định hướng phát triển kinh tế xã hội của Đảng, chính sách kinh tế
đối ngoại nói chung và Thương mại Quốc tế nói riêng phải được coi là một
chính sách cơ cấu quan trọng, chiến lược nhằm phục vụ quá trình phát triển
của nền kinh tế quốc dân. Chính sách xuất nhập khẩu phải tranh thủ được
tới mức cao nhất nguồn vốn kỹ thuật , công nghệ tiên tiến của nước ngoài
nhằm thúc đẩy sản xuất hàng hoá phát triển , giải quyết việc làm cho người
lao động, thực hiện phương châm phát triển thương mại với nước ngoài để
đẩy mạnh sản xuất trong nước,vừa có sản phẩm tiêu dùng vừa có hàng hoá
để xuất khẩu.
Như vậy, đối với mọi quốc gia cũng như nước ta, xuất khẩu thực sự có
vai trò quan trọng, thể hiện:
2.1 Xuất khẩu tạo nguồn vốn chủ yếu cho nhập khẩu, phục vụ công
cuộc Công nghiệp hoá , hiện đại hoá đất nước.
Để thực hiện đường lối Công nghiệp hoá_Hiện đại hoá đất nước, trước
mắt chúng ta cần phải nhập khẩu một số lượng lớn máy móc, trang thiết bị
hiện đại từ bên ngoài nhằm trang bị cho nền sản xuất. Nguồn vốn để nhập
khẩu thường dựa vào các nguồn chủ yếu sau đây: Vay, viện trợ, đầu tư
nước ngoài và xuất khẩu. Nguồn vốn vay rồi cũng phải trả, còn viện trợ và
đầu tư nước ngoài thì có hạn, hơn nữa các nguồn này thường bị phụ thuộc
vào nước ngoài, vì vậy nguồn vốn quan trọng nhất để nhập khẩu thiết bị
chính là xuất khẩu. Ngược lại, nếu nhập khẩu nhiều hơn xuất khẩu làm
thâm hụt cán cân thương mại quá lớn sẽ có thể ảnh hưởng xấu đến nền kinh
tế quốc dân.
7
2.2 Xuất khẩu đóng góp vào việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thúc đẩy
sản xuất phát triển.
Dưới tác động của xuất khẩu, cơ cấu sản xuất và tiêu dùng trên thế giới
đã và đang thay đổi mạnh mẽ. Xuất khẩu làm chuyển dịch cơ cấu kinh tế
của các quốc gia từ nông nghiệp sang công nghiệp và dịch vụ.
Ngày nay, đa số các nước đều lấy nhu cầu thị trường thế giới làm cơ sở
để tổ chức sản xuất và xuất khẩu. Điều đó có tác động tích cực đến sự
chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thúc đẩy sản xuất phát triển. Sự tác động này
thể hiện:
- Xuất khẩu tạo điều kiện cho các nghành khác có cơ hội phát triển.
Chẳng hạn, khi phát triển nghành dệt-may xuất khẩu sẽ tạo điều kiện
đầy đủ cho việc phát triển các nghành sản xuất nguyên liệu như trồng
bông, kéo sợi, nhuộm, tẩy hấp Cũng như vậy, sự phát triên của nghành
chế biến thực phẩm xuất khẩu cũng có thể kéo theo sự phát triển của
nghành công nghiệp trồng trọt , chăn nuôi và cả các nghành công nghiệp
khác như xay xát, chế biến thức ăn gia súc
- Xuất khẩu tạo điều kiện mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm, góp phần
làm cho sản xuất ổn định và phát triển, tạo ra lợi thế kinh tế nhờ quy mô
(hiệu quả kinh tế nhờ quy mô).
- Xuất khẩu còn có vai trò thúc đẩy chuyên môn hoá, nâng cao hiệu quả
sản xuất của quốc gia. Nó cho phép chuyên môn hoá sản xuất phát triển
cả chiều rộng và chiều sâu. Ngày nay, với một loại sản phẩm, người ta
nghiên cứu thiết kế, thử nghiệm ở các nước thứ nhất, chế tạo ở nước thứ
hai, lắp ráp ở nước thứ ba, tiêu thụ ở nước thứ tư và thanh toán thực
hiện ở nước thứ năm. Như vậy hàng hoá được sản xuất ra ở một nước và
tiêu thụ ở những nước khác nhau cho thấy tác động ngược trở lại của
hoạt động xuất khẩu đối với việc chuyên môn hoá sản xuất, tạo điều
kiện cho chuyên môn hoá sâu.
8
- Với đặc điểm quan trọng là ngoại tệ được sử dụng làm phương tiện
thanh toán xuất khẩu góp phần làm tăng dự trữ ngoại tệ cho một quốc
gia.
- Xuất khẩu tạo điều kiện mở rộng khả năng cung cấp đầu vào cho sản
xuất nâng cao năng lực sản xuất trong nước, mở rộng khả năng tiêu
dùng của quốc gia.
- Thông qua xuất khẩu , hàng hoá của một quốc gia có điều kiện tham gia
vào cuộc cạnh tranh trên thị trường thế giới về giá cả và chất lượng.
Cuộc cạnh tranh này có tác dụng buộc các nhà doanh nghiệp phải tổ
chức lại sản xuất, hình thành một cơ cấu sản xuất hợp lý luôn thích nghi
được với sự biến động của thị trường thế giới.
2.3 Xuất khẩu có vai trò kích thích đổi mới trang thiết bị và công nghệ sản
xuất.
Hoạt động xuất khẩu là hoạt động hướng ra thị trường thế giới, một thị
trường mà ngày càng cạnh tranh quyết liệt. Sự tồn tại và phát triển của
hàng hoá xuất khẩu phụ thuộc rất lớn vào chất lượng, giá cả do đó phụ
thuộc rất lớn vào kỹ thuật công nghệ sản xuất chúng. Điều này thúc đẩy các
doanh nghiệp trong nước phải luôn luôn đổi mới, luôn luôn tìm tòi sáng tạo
để cải tiến, nâng cao chất lượng công nghệ sản xuất. Mặt khác, xuất khẩu
trong nền kinh tế cạnh tranh còn đòi hỏi các doanh nghiệp phải đổi mới và
hoàn thiện công tác quản trị sản xuất và kinh doanh, đòi hỏi phải nâng cao
tay nghề người lao động.
2.4 Xuất khẩu có tác động tích cực tới việc giải quyết công ăn việc làm và
cải thiện đời sống nhân dân.
Tác động của xuất khẩu đến đời sống trên nhiều phương diện. Một mặt
sản xuất hàng xuất khẩu là nơi thu hút hàng triệu lao động vào làm việc và
có thu nhập ổn định. Mặt khác, xuất khẩu tạo ra ngoại tệ để nhập khẩu vật
9
phẩm tiêu dùng, đáp ứng nhu cầu đa dạng và ngày càng phong phú của
nhân dân.
2.5 Xuất khẩu là cơ sở để mở rộng và thúc đẩy sự phát triển các mối quan
hệ kinh tế đối ngoại.
Đẩy mạnh xuất khẩu có vai trò tăng cường sự hợp tác quốc tế với các
nước, nâng cao địa vị và vai trò của nước ta trên thương trường quốc tế
xuất khẩu và công nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu thúc đẩy quỹ tín dụng,
đầu tư, mở rộng vận tải quốc tế Mặt khác, chính các quan hệ kinh tế đối
ngoại lại tạo tiền đề cho việc mở rộng xuất khẩu.
Có thể nói, xuất khẩu không chỉ đóng vai trò chất xúc tác hỗ trợ phát
triển kinh tế mà nó còn cùng với hoạt động nhập khẩu như là yếu tố bên
trong trực tiếp tham gia vào việc giải quyết những vấn đề thuộc nội bộ nền
kinh tế như : vốn, kỹ thuật, lao động, nguồn tiêu thụ thị trường
Đối với nước ta hướng mạnh về xuất khẩu là một trong những mục tiêu
quan trọng trong phát triển quan hệ kinh tế đối ngoại, qua đó tranh thủ đón
bắt thời cơ, ứng dụng khoa học công nghệ hiện đại , rút ngắn sự chênh lệch
về trình độ phát triển của Việt Nam so với thế giới. Kinh nghiệm cho thấy,
bất cứ một quốc gia nào và trong thời kỳ nào đẩy mạnh được xuất khẩu thì
nền kinh tế của nước đó trong thời gian đó có tốc độ phát triển cao.
Tóm lại, thông qua xuất khẩu sẽ góp phần nâng cao hiệu quả sản xuất xã
hội bằng việc mở rộng trao đổi và thúc đẩy việc tận dụng các lợi thế, tiềm
năng và cơ hội của Đất nước.
3.Vai trò của hoạt động xuất khẩu đối với các Doanh nghiệp.
Ngày nay, xu hướng vươn ra thị trường nước ngoài là một xu hướng
chung của tất cả các quốc gia và các doanh nghiệp, việc xuất khẩu các loại
hàng hoá và dịch vụ ra nước ngoài đưa lại cho doanh nghiệp những lợi ích
sau đây:
10
- Xuất khẩu tạo điều kiện cho doanh nghiệp có cơ hội mở rộng thị trường,
mở rộng quan hệ kinh doanh với bạn hàng trong và ngoài nước trên cơ
sở hai bên cùng có lợi, tăng doanh số và lợi nhuận, đồng thời phân tán
và chia sẻ rủi ro, mất mát trong hoạt động kinh doanh, tăng cường uy tín
kinh doanh của doanh nghiệp trên thị trường.
- Thông qua hoạt động xuất khẩu, các doanh nghiệp trong nước có cơ hội
tham gia vào cuộc cạnh tranh trên thị trường quốc tế. Qua đó có điều
kiện giữ gìn nâng cấp và phát triển trình độ kỹ thuật công nghệ, phát
triển hệ thống các kênh phân phối sản phẩm.
- Xuất khẩu đảm bảo cho doanh nghiệp luôn nâng cao việc sử dụng các
kỹ năng quản lý chuyên môn, chẳng hạn như kỹ năng quản lý hoạt động
xuất khẩu, bán hàng trên thị trường quốc tế, quản lý và dự đoán những
xu hướng biến động của tỷ giá hối đoái. Mặt khác, qua xuất khẩu doanh
nghiệp có được nguồn ngoại tệ để nhập khẩu máy móc thiết bị, công
nghệ, kỹ thuật để tái đầu tư vào quá trình sản xuất kinh doanh.
- Ngoài ra, sản xuất hàng xuất khẩu giúp doanh nghiệp thu hút được
nhiều lao động vào làm việc, tạo ra thu nhập ổn định cho các bộ công
nhân viên, tạo ra ngoại tệ để nhập khẩu vật liệu tiêu dùng, vừa đáp ứng
được nhu cầu tiêu dùng ngày càng phong phú của nhân dân, vừa tăng
khả năng quay vòng vốn nhanh, tạo điều kiện thu hút lợi nhuận cao.
II. CÁC HÌNH THỨC XUẤT KHẨU CHỦ YẾU:
Với mục tiêu là đa dạng hoá kinh doanh xuất khẩu, nhằm phân tán và
chia sẻ rủi ro, các doanh nghiệp ngoại thương có thể lựa chọn nhiều hình
thức xuất khẩu khác nhau. Một số hình thức xuất khẩu chủ yếu là:
1. Xuất khẩu trực tiếp.
Xuất khẩu trực tiếp là hình thức đơn vị ngoại thương xuất khẩu các loại
hàng hoá dịch vụ do chính doanh nghiệp sản xuất ra hoặc thu mua từ các
đơn vị sản xuất trong nước tới khách hàng nước ngoài thông qua các tổ
11
chức của mình. Về nguyên tắc, xuất khẩu trực tiếp có thể làm tăng thêm rủi
ro trong kinh doanh, song nó lại có những ưu điểm nổi bật sau: Giảm bớt
chi phí trung gian do đó tăng lợi nhuận cho doanh nghiệp. Có thể liên hệ
trực tiếp và đều đặn với khách hàng và với thị trường nước ngoài, biết được
nhu cầu của khách hàng và tình hình bán hàng ở đó nên ta có thể thay đổi
sản phẩm và những điều kiện bán hàng trong trường hợp cần thiết.
2.Xuất khẩu uỷ thác.
Là hình thức kinh doanh, trong đó đơn vị ngoại thương đóng vai trò là
người trung gian thay cho đơn vị sản xuất tiến hành ký kết hợp đồng mua
bán ngoại thương, tiến hành các thủ tục cần thiết để xuất khẩu hàng hoá
cho nhà sản xuất và qua đó thu được một số tiền nhất định ( thường là tỷ lệ
% của giá trị lô hàng xuất khẩu).
Ưu điểm của hình thức xuất khẩu này là mức độ rủi ro thấp, đặc biệt là
không cần bỏ vốn vào kinh doanh, tạo được việc làm cho người lao động
đồng thời cũng thu được một khoản lợi nhuận đáng kể. Ngoài ra trách
nhiệm trong việc tranh chấp và khiếu nại thuộc về người sản xuất.
12
3.Xuất khẩu gia công uỷ thác.
Đây là hình thức kinh doanh mà trong đó đơn vị ngoại thương đứng ra
nhập nguyên liệu hoặc bán thành phẩm cho xí nghiệp gia công, sau đó thu
hồi thành phẩm để xuất lại cho bên nước ngoài. Đơn vị được hưởng phí uỷ
thác theo thoả thuận với các xí nghiệp sản xuất.
Hình thức này có ưu điểm là doanh nghiệp thương mại không cần bỏ vốn
vào kinh doanh nhưng vẫn thu được lợi nhuận, rủi ro ít hơn, việc thanh toán
chắc chắn hơn. Tuy nhiên, nó đòi hỏi phải tiến hành nhiều công việc, nhiều
thủ tục xuất nhập khẩu, các cán bộ kinh doanh phải có kinh nghiệm và
nghiệp vụ kể cả trong quá trình giám sát và kiểm tra công việc.
4.Buôn bán đối lưu .
Buôn bán đối lưu là phương thức giao dịch, trong đó xuất khẩu kết hợp
chặt chẽ với nhập khẩu, người bán đồng thời là người mua và lượng hàng
hoá mang ra trao đổi thường có giá trị tương đương. Mục đích xuất khẩu ở
đây không phải nhằm thu về một khoản ngoại tệ mà nhằm mục đích có
được một lượng hàng hoá có giá trị tương đương với giá trị lô hàng xuất
khẩu.
Lợi ích của buôn bán đối lưu là nhằm tránh những rủi ro về sự biến động
của tỷ giá hối đoái trên thị trường ngoại hối. Đồng thời còn có lợi khi các
bên không đủ ngoại tệ để thanh toán cho lô hàng nhập khẩu của mình.
Thêm vào đó, đối với một quốc gia buôn bán đối lưu có thể làm cân bằng
hạng mục thường xuyên trong cán cân thanh toán.
5.Xuất khẩu theo nghị định thư ( Xuất khẩu trả nợ).
Đây là hình thức mà doanh nghiệp xuất khẩu của Nhà nước giao tiến
hành xuất khẩu một số mặt hàng hoá nhất định cho chính phủ nước ngoài
trên cơ sở nghị định thư đã ký giữa hai Chính phủ.
13
Hình thức này cho phép doanh nghiệp tiết kiệm được các khoản chi phí
trong việc nghiên cứu thị trường, tìm kiếm bạn hàng. Mặt khác, thường
không có sự rủi ro trong thanh toán ( thanh toán do chính phủ thực hiện).
Trên thực tế, hình thức xuất khẩu này chỉ xuất hiện rất ít, thường trong môt
số nước XHCN trước đây và chỉ trong một số doanh nghiệp Nhà nước.
6. Gia công quốc tế.
Gia công quốc tế là hình thức kinh doanh , trong đó một bên (gọi là
bên nhận gia công ) nhập khẩu nguyên liệu hoặc bán thành phẩm của một
bên khác ( gọi là bên nhận gia công ) để chế biến thành ra thành phẩm, giao
lại cho bên đặt gia công và nhận thù lao (gọi là phí gia công ).
Đây cũng là một hình thức xuất khẩu đang có bước phát triển mạnh mẽ
được nhiều quốc gia, nhất là những quốc gia có nguồn lao động dồi dào tài
nguyên thiên nhiên phong phú, áp dụng rộng rãi vì thông qua hình thức gia
công, ngoài việc tạo việc làm và thu nhập cho người lao động họ còn có
điều kiện cải tiến và đổi mới máy móc thiết bị kỹ thuật công nghệ nhằm
nâng cao năng lực sản xuất. Đối với nước đặt gia công họ cũng có lợi ích vì
lợi dụng được giá rẻ về nguyên liệu phụ và nhân công của nước nhận gia
công.
Hình thức xuất khẩu này, chủ yếu được áp dụng trong những ngành sản
xuất sử dụng nhiều lao động và nguyên vật liệu như dệt may, giày da
Nhiều nước đang phát triển đã nhờ vận dụng phương thức gia công quốc tế
mà có được một nền công nghiệp hiện đại, chẳng hạn như Hàn Quốc, Thái
Lan, Xingapore
7.Tái xuất khẩu.
Nội dung của hình thức xuất khẩu này là xuất khẩu những hàng hoá mà
trước đây đã nhập khẩu và chưa tiến hành các hoạt động chế biến. Ưu điểm
của hình thức xuất khẩu này là doanh nghiệp có thể thu được lợi nhuận cao
14

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét