Thứ Ba, 21 tháng 1, 2014

Giải pháp tăng cường huy động vốn tài Sở giao dịch – Ngân hàng Đầu tư và phát triển Việt Nam.docx

Chuyên đề tốt nghiệp
khác trong xã hội. Hệ thống ngân hàng phát triển bền vững ổn định là điều
kiện cần thiết cho một nền kinh tế vững mạnh.
Các Ngân hàng thương mại đều thực hiện 3 chức năng cơ bản sau.
Trung gian tài chính.
Ngân hàng là trung gian tài chính lớn nhất và đóng vai trò quan trọng trong
nền kinh tế với hoạt động chủ yếu là biến tiết kiệm thành đầu tư. Trong nền
kinh tế, ở 1 thời điểm bất kì luôn có sự nhàn rỗi tạm thời về vốn đối với cá
nhân, danh nghiệp hay tổ chức này nhưng cùng lúc đó một số cá nhân, tổ
chức hay doanh nghiệp khác lại đang trong tình trạng thiếu hụt về vốn, do đó
tất yếu sẽ phát sinh một sự dịch chuyển về vốn giữa 2 nhóm này. Tuy nhiên
do hạn chế về mặt thông tin cũng như những giới hạn về khoảng cách không
gian, thời gian nên việc chuyển giao vốn một cách trực tiếp sẽ gặp nhiều khó
khăn, tốn chi phí và kém an toàn. Ngân hàng thương mại đứng ra đóng vai trò
trung gian giúp cho cung cầu về vốn gặp nhau thông qua huy động vốn từ
người này và cho vay đối với người kia, giải quyết các mâu thuẫn của tín
dụng trực tiếp trên cơ sở gánh chịu rủi ro và sử dụng các kĩ thuật nghiệp vụ
nhằm hạn chế, phân tán rủi ro và giảm chi phí giao dịch.
Tạo phương tiện thanh toán.
Trước đây khi chưa có Ngân hàng trung ương chuyên về nghiệp vụ phát hành
tiền thì các Ngân hàng thương mại cũng phát hành tiền giấy của riêng mình
dưới dạng giấy nợ ngân hàng dựa trên số lượng tiền – vàng đang nắm giữ.
Với những ưu thế nhất định, giấy nợ ngân hàng dần thay thế tiền vàng trở
thành phương tiện thanh toán và cất trữ - trở thành tiền giấy.
Vũ Quỳnh Anh Khoa Ngân hàng - Tài chính
5
Khi ngân hàng trung ương ra đời, các Ngân hàng thương mại không còn được
phát hành giấy bạc của riêng mình. Tuy nhiên, ngân hàng vẫn có khả năng tạo
phương tiện thanh toán bằng việc cho vay đối với khách hàng, nhờ đó mà
khách hàng có thể sử dụng số dư tăng thêm trên tài khoản tiền gửi thanh toán
của mình để mua hàng hóa dịch vụ. Ngoài ra, hoạt động trong lĩnh vực tiền tệ,
toàn bộ hệ thống ngân hàng thương mại là một trong bốn nhân tố trong quá
trình cung ứng tiền tệ. Khi họ mở rộng các khoản tiền gửi từ ngân hàng này
đến ngân hàng khác trên cơ sở cho vay, toàn bộ hệ thống đã tạo ra tạo ra khối
lượng tiền gửi tăng gấp bội theo công thức số nhân tiền tệ.
Trung gian thanh toán.
Trong các loại nghiệp vụ Ngân hàng, vai trò làm trung gian thanh toán cho
nền kinh tế là một nghiệp vụ rất quan trọng, nó có lịch sử gắn liền với lịch sử
hình thành và phát triển của hệ thống Ngân hàng cũng như có vai trò to lớn
trong việc thúc đẩy sản xuất và lưu thông hàng hoá phát triển. Các giao dịch
thanh toán của khách hàng và nội bộ ngân hàng (đổi tiền, đầu cơ, đầu tư,
quyết toán thanh toán…) thực hiện dưới hình thức tiền mặt, chuyển khoản
(trong hệ thống) hoặc chuyển tiền (liên ngân hàng).
Ngân hàng thay mặt khách hàng thanh toán giá trị hàng hóa và dịch vụ, sử
dụng một loạt các hình thức thanh toán như thanh toán bằng séc, ủy nhiệm
chi, ủy nhiệm thu, thư tín dụng, các loại thẻ thanh toán. Các ngân hàng còn
thực hiện thanh toán bù trừ với nhau qua trung tâm thanh toán trong nước và
quốc tế theo các qui chuẩn thống nhất.
Ngày nay, khi khoa học công nghệ phát triển mạnh mẽ, thương mại điện tử
được ứng dụng rộng rãi thì hoạt động thanh toán của ngân hàng ngày càng đạt
Vũ Quỳnh Anh Khoa Ngân hàng - Tài chính
6
Chuyên đề tốt nghiệp
hiệu quả cao hơn, an toàn và tiện lợi, đóng góp đắc lực vào sự vận động phát
triển của nền kinh tế toàn cầu.
1.1.2. Các hoạt động cơ bản của Ngân hàng thương mại.
1.1.2.1. Hoạt động huy động vốn.
Huy động vốn là hoạt động tiền đề có ý nghĩa quan trọng đối với bản thân
ngân hàng cũng như đối với toàn xã hội, đóng vai trò quan trọng trong việc
duy trì và tiến hành các hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Trong nghiệp
vụ này, ngân hàng thương mại sử dụng các biện pháp và công cụ cần thiết
trong giới hạn của pháp luật để huy động các nguồn tiền nhàn rỗi trong xã
hội, tăng nguồn tín dụng. Kết quả của hoạt động này là tạo ra nguồn vốn đáp
ứng các nhu cầu của nền kinh tế.
Huy động vốn từ việc nhận tiền gửi: Là nguồn vốn huy động thường xuyên
chiếm tỷ trọng cao nhất trong tổng nguồn vốn của ngân hàng thương mại,
thực chất là tài sản bằng tiền của các chủ sở hữu mà ngân hàng tạm thời quản
lý và sử dụng, nhưng với nghĩa vụ hoàn trả kịp thời, đầy đủ khi khách hàng
yêu cầu Các loại hình huy động vốn từ tiền gửi bao gồm:
• Tiền gửi không kì hạn: Là nguồn vốn có chi phí thấp nhưng lại không ổn
định, vì người gửi tiền có thể rút ra bất cứ lúc nào nhằm phục vụ mục đích
sử dụng dịch vụ thanh toán của ngân hàng. Mang lại nguồn thu phí về dịch
vụ cho các ngân hàng.
• Tiền gửi có kì hạn của các doanh nghiệp, tổ chức xã hội : Là nguồn vốn có
kì hạn xác định, tương đối ổn định nhưng chi phí để có và duy trì, quản lý
Vũ Quỳnh Anh Khoa Ngân hàng - Tài chính
7
nguồn vốn này lại khá cao, khách hàng gửi tiền vào chủ yếu nhằm mục
đích an toàn và sinh lời.
• Tiền gửi tiết kiệm từ dân cư : Là nguồn tiền có kì hạn tương đối ổn định,
tuy nhiên chi phí cũng không thấp. Mục đích chủ yếu của dân cư khi gửi
tiền là nhu cầu bảo toàn vốn và hưởng lãi. Thông thường đây là nguồn vốn
chiếm tỉ trọng lớn, các ngân hàng cũng tìm cách để thu hút bằng cách đa
dạng hóa các hình thức huy động và sử dụng lãi suất cạnh tranh hấp dẫn.
Huy động vốn thông qua phát hành giấy từ có giá ( Kì phiếu, trái phiếu, chứng
chỉ tiền gửi …): Là các công cụ nợ do ngân hàng phát hành để huy động vốn
trên thị trường khi thiếu nguồn tiền gửi trung và dài hạn để đáp ứng nhu cầu
cho vay trung và dài hạn. Thường thì những ngân hàng lớn có uy tín hoặc
chấp nhận trả lãi suất cao sẽ dễ vay mượn hơn. Tuy nhiên các ngân hàng cũng
cần nghiên cứu kĩ thị trường để đưa ra mức lãi suất và kì hạn phù hợp để có
thể huy động được vốn với hiệu quả cao nhất.
Huy động vốn thông qua nghiệp vụ đi vay: Ngân hàng thương mại đi vay vốn
từ Ngân hàng trung ương hay các tổ chức tín dụng khác vào những giai đoạn
nhất định nhằm đáp ứng nhu cầu chi trả khi khả năng huy động bị hạn chế.
Chi phí cho nguồn vốn này tương đối đắt nên thường chỉ được duy trì ở một tỉ
trọng nhỏ và trong những trường hợp cụ thể.
Huy động vốn bổ sung vào nguồn vốn chủ sở hữu: Nguồn vốn chủ sở hữu chỉ
chiếm một tỉ trọng khá khiêm tốn trong tổng nguồn vốn nhưng lại có vai trò
quan trọng đối với sự hình thành và phát triển hoạt động kinh doanh của
Vũ Quỳnh Anh Khoa Ngân hàng - Tài chính
8
Chuyên đề tốt nghiệp
Ngân hàng. Ngân hàng tăng cường nguồn vốn chủ sở hữu của mình thông qua
việc phát hành cổ phiếu, trái phiếu hay bổ sung vốn từ lợi nhuận.
1.1.2.2. Hoạt động sử dụng vốn.
Việc sử dụng vốn chính là quá trình tạo ra các loại tài sản khác nhau của
Ngân hàng dựa trên nguồn vốn đã huy động được, trong đó quan trọng nhất là
nghiệp vụ cho vay và đầu tư mang lại nguồn thu nhập chính cho ngân hàng.
Dự trữ: Là bộ phận cần thiết và tất yếu đối với mọi ngân hàng, nhằm đảm bảo
khả năng thanh toán. Dự trữ của Ngân hàng thương mại bao gồm dự trữ bắt
buộc và dự trữ thanh toán.
Dự trữ bắt buộc: Để đảm bảo an toàn chung cho toàn hệ thống, đồng thời sử
dụng như một công cụ để điều hành chính sách tiền tệ, Ngân hàng trung ương
được ấn định một tỉ lệ dự trữ bắt buộc trên mỗi khoản tiền gửi trong từng thời
kì nhất định. Các ngân hàng thương mại phải duy trì tỉ lệ này, và thông
thường được gửi tại Ngân hàng trung ương.
Dự trữ thanh toán: Các ngân hàng tự xác định một mức dự trữ phù hợp nhất
định dựa trên kinh nghiệm và điều kiện thực tế. Khoản dự trữ này được duy
trì dưới dạng tiền mặt nằm trong két của Ngân hàng và tiền gửi tại các ngân
hàng thương mại khác. Mục đích chủ yếu là đáp ứng nhu cầu thanh toán.
Tín dụng: Là loại tài sản chiếm tỉ trọng lớn nhất tại các ngân hàng thương mại
đồng thời mang lại nguồn thu chủ yếu cho Ngân hàng. Nếu phân chia theo
hình thức tài trợ, các nghiệp vụ tín dụng chủ yếu của Ngân hàng gồm có:
Vũ Quỳnh Anh Khoa Ngân hàng - Tài chính
9
Cho vay: Là loại hình tín dụng phổ biến nhất trong đó Ngân hàng cho người
đi vay sử dụng một số vốn để tiến hành các hoạt động sản xuất kinh doanh,
đầu tư hay tiêu dùng. Theo cam kết thì đến hạn người đi vay sẽ phải hoàn trả
cho ngân hàng phần vốn đã vay cộng thêm tiền lãi. Ngân hàng kiểm soát
được người đi vay cũng như quá trình sử dụng vốn. Hoạt động này có mức độ
rủi ro rất lớn, có thể không thu hồi được vốn vay hoặc người vay trả không
hết hay trả không đúng hạn. Do đó, trong hoạt động cho vay, các Ngân hàng
sử dụng các biện pháp đảm bảo như thế chấp, cầm cố …
Chiết khấu thương phiếu: Là việc ngân hàng ứng trước tiền cho khách hàng
tương ứng với giá trị của thương phiếu trừ đi phần thu nhập của ngân hàng để
sở hữu một thương phiếu chưa đến hạn. Trong nghiệp vụ này, ngân hàng cung
cấp tín dụng cho một chủ thể và một chủ thể khác thực hiện việc trả nợ cho
ngân hàng.
Cho thuê (Financial leasing): Là loại hình tín dụng trung, dài hạn, trong đó
ngân hàng bỏ tiền của mình ra để mua tài sản cho khách hàng thuê theo
những điều kiện nhất định. Khi hết hợp đồng thuê, khách hàng được quyền
mua lại hoặc kéo dài thời hạn thuê, hoặc lựa chọn trả lại tài sản cho ngân
hàng.
Bảo lãnh: Là việc ngân hàng cam kết thực hiện các nghĩa vụ tài chính thay
cho khách hàng, cho phép khách hàng sử dụng uy tín của mình để thực hiện
các hợp đồng kinh tế đã kí kết hay các hoạt động kinh doanh khác. Trên cơ sở
đó, ngân hàng thu phí bảo lãnh từ khách hàng.
Đầu tư: là khoản mục có vị trí rất quan trọng, mang lại cho ngân hàng khoản
thu nhập tương đối lớn. Ngân hàng có thể dùng nguồn vốn huy động được để
Vũ Quỳnh Anh Khoa Ngân hàng - Tài chính
10
Chuyên đề tốt nghiệp
đầu tư vào các lĩnh vực nhưng chủ yếu là đầu tư vào chứng khoán. Tất cả các
hình thức đầu tư đều nhằm mục đích mang lại thu nhập, nhưng mặt khác nhờ
hoạt động đầu tư mà các rủi ro của hoạt động ngân hàng sẽ được phân tán. Do
vậy, các ngân hàng cũng chủ yếu nắm giữ các loại giấy tờ có giá có tính thanh
khoản cao và khả năng sinh lời như chứng khoán chính phủ, chứng khoán
ngân hàng và chứng khoán của các công ty lớn có uy tín.
Nghiệp vụ kinh doanh ngoại tệ: Ngân hàng thương mại cũng tham gia kinh
doanh trên thị trường hối đoái nhằm thu lợi cho chính mình hoặc cho khách
hàng. Hoạt động kinh doanh ngoại tệ thường gặp phải tổn thất nếu gặp rủi ro
hối đoái nên đòi hỏi ngân hàng phải có trình độ chuyên môn cao và nhanh
nhạy với những biến động trên thị trường.
Tài trợ cho các hoạt động của chính phủ : Theo yêu cầu của chính phủ hoặc
do ngân hàng tự nguyện tài trợ cho các dự án của chính phủ.
1.1.2.3. Các hoạt động khác.
- Bảo quản vật có giá
- Cung cấp các dịch vụ ủy thác và tư vấn
- Cung cấp dịch vụ môi giới đầu tư chứng khoán
- Cung cấp các dịch vụ bảo hiểm.
- Cung cấp các dịch vụ đại lý.
1.2. Vốn của Ngân hàng thương mại.
1.2.1. Vốn chủ sở hữu.
Vũ Quỳnh Anh Khoa Ngân hàng - Tài chính
11
Vốn chủ sở hữu tuy chỉ chiếm tỉ trọng nhỏ trong tổng nguồn vốn của ngân
hàng thương mại nhưng lại là cơ sở để ngân hàng đó bắt đầu các hoạt động
kinh doanh, đóng vai trò sống còn trong việc duy trì các hoạt động thường
nhật và đảm bảo cho ngân hàng khả năng phát triển lâu dài.
1.2.1.1. Nguồn hình thành vốn chủ sở hữu.
Tùy thuộc vào tính chất sở hữu, năng lực tài chính của mỗi ngân hàng, yêu
cầu và sự phát triển của thị trường mà nguồn hình thành vốn chủ của mỗi
ngân hàng cũng khác nhau.
Nguồn vốn hình thành ban đầu: Tùy theo tính chất của mỗi ngân hàng. Nếu
ngân hàng thuộc sở hữu của nhà nước thì vốn ban đầu do nhà nước cấp, nếu
là ngân hàng cổ phần thì vốn do các cổ đông đóng góp thông qua mua cổ
phần hoặc cổ phiếu, nếu là ngân hàng tư nhân thì vốn ban đầu do tư nhân bỏ
ra. Vốn ban đầu sẽ được ghi vào điều lệ của công ty và gọi là vốn điều lệ.
Theo quy định của pháp luật thì vốn điều lệ không được nhỏ hơn mức vốn
pháp định.
Nguồn vốn bổ sung trong quá trình hoạt động: Trong quá trình hoạt động,
ngân hàng sẽ gia tăng vốn chủ theo nhiều phương thức khác nhau tùy theo
những điều kiện cụ thể.
• Nguồn từ lợi nhuận: Khi thu nhập ròng của ngân hàng dương, chủ ngân
hàng có thể gia tăng vốn của chủ bằng cách chuyển 1 phần thu nhập ròng
thành vốn đầu tư. Tỉ lệ tích lũy do chủ ngân hàng tự quyết định.
• Nguồn bổ sung từ phát hành thêm cổ phần, cấp thêm, góp thêm… để mở
rộng quy mô hoạt động, hiện đại hóa ngân hàng. Tuy là nguồn huy động
Vũ Quỳnh Anh Khoa Ngân hàng - Tài chính
12
Chuyên đề tốt nghiệp
không thường xuyên nhưng lại giúp ngân hàng có lượng vốn chủ sở hữu
lớn vào lúc cần thiết.
Các quỹ: Ngân hàng có nhiều quỹ, mỗi quỹ có mục đích sử dụng riêng.
Thông thường các ngân hàng sẽ có Quỹ dự phòng tổn thất (được trích lập
hàng năm theo tỉ lệ nhất định, nhằm bù đắp những tổn thất xảy ra), Quỹ bảo
toàn vốn (bù đắp hao mòn của vốn do lạm phát) Quỹ thặng dư (đánh giá lại
tài sản của ngân hàng và chênh lệch giữa giá thị trường với mệnh giá cổ phiếu
khi phát hành). Ngoài ra có thể có các quỹ khác như quỹ phúc lợi, quỹ khen
thưởng … Tất cả các quỹ được trích lập từ lợi nhuận hàng năm theo những
quy định cụ thể.
Nguồn vay nợ có thể chuyển đổi thành vốn cổ phần: Các khoản vay trung và
dài hạn của ngân hàng thương mại có thể chuyển đổi thành vốn cổ phần sau
thời hạn nhất định được coi là một bộ phận của vốn chủ sở hữu do tính chất
lâu dài và không phải hoàn trả khi đến hạn.
1.2.1.2. Vai trò của vốn chủ sở hữu.
Như đã đề cập ở trên, vốn chủ sở hữu của một ngân hàng đóng vai trò rất
quan trọng đối với sự hình thành và phát triển lâu dài của một ngân hàng.
Thứ nhất: Vốn chủ sở hữu là điều kiện bắt buộc để ngân hàng có được giấy
phép hoạt động kinh doanh, hình thành nên nhà cửa, trang thiết bị cần thiết
cho ngân hàng và cơ sở huy động những khoản tiền gửi đầu tiên.
Thứ hai: Vốn chủ sở hữu của ngân hàng là tấm đệm chống đỡ rủi ro phá sản,
được sử dụng để bù đắp cho những thua lỗ về tài chính trong quá trình hoạt
động trong một khoảng thời gian nhất định trước khi chủ ngân hàng tìm cách
Vũ Quỳnh Anh Khoa Ngân hàng - Tài chính
13
đưa ngân hàng trở lại hoạt động bình thường. Do đó vốn chủ sở hữu là bộ
phận quan trọng góp phần bảo vệ lợi ích của người gửi tiền.
Thứ ba: Vốn chủ sở hữu tạo ra uy tín cho ngân hàng, tạo niềm tin cho công
chúng và đảm bảo đối với chủ nợ về năng lực tài chính của ngân hàng. Ngân
hàng có vốn chủ sở hữu càng lớn thì khách hàng càng tin tưởng.
Thứ tư: Vốn của chủ là cơ sở để ngân hàng mở rộng quy mô hoạt động, triển
khai các dịch vụ mới, đầu tư trang thiết bị hiện đại hóa hoạt động ngân hàng.
Mặc dù không quy định nhưng theo tính toán thì khả năng huy động vốn ở
mức 20 lần so với vốn chủ sở hữu là một tỉ lệ an toàn. Do đó tăng vốn chủ sở
hữu cũng là tăng khả năng huy động vốn của ngân hàng.
1.2.2. Vốn nợ.
Vốn nợ là nguồn vốn chủ yếu của ngân hàng thương mại. Chất lượng và số
lượng của nó ảnh hưởng đáng kể tới chất lượng và số lượng các khoản cho
vay và đầu tư.
1.2.2.1. Các nguồn vốn nợ của Ngân hàng thương mại.
Tiền gửi và các nghiệp vụ huy động tiền gửi.
Tiền gửi của khách hàng là nguồn tài nguyên quan trọng nhất, là nền tảng cho
sự thịnh vượng và phát triển của ngân hàng. Là khoản mục duy nhất trên bảng
cân đối kế toán giúp phân biệt Ngân hàng với các loại hình doanh nghiệp
khác.
Tiền gửi là nguồn tiền chiếm tỷ trọng lớn trong tổng nguồn tiền của ngân
hàng ( khoảng hơn 50%). Tuy nhiên tiền gửi là đối tượng phải dự trữ bắt buộc
nên chi phí tiền gửi thường cao hơn so với lãi trả cho tiền gửi.
Vũ Quỳnh Anh Khoa Ngân hàng - Tài chính
14

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét