Thứ Năm, 23 tháng 1, 2014

Kinh tế tư nhân Việt Nam - thực trạng và giải pháp

Khoá luận tốt nghiệp
Trong phạm vi nghiên cứu của khoá luận về khu vực kinh tế tư nhân ở Việt
Nam, khu vực kinh tế tư nhân là khu vực kinh tế bao gồm các đơn vị, cơ sở và cá
nhân sản xuất—kinh doanh dựa trên hình thức sở hữu tư nhân trong nước.
Các khái niệm về KTTN sẽ cho chúng ta một cái nhìn đúng đắn và có sự
phân tích chọn lọc về khu vực KTTN.
1.1.2 Đặc Điểm:
Thứ nhất: Kinh tế tư nhân là các đơn vị kinh doanh, hoạt động vì mục đích
hàng đầu là lợi nhuận.
Trong một số doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế Nhà nước hay kinh tế tập
thể, mục tiêu lợi nhuận với họ không phải là hàng đầu và có một số doanh nghiệp
trong lĩnh vực công cộng hoạt động vì mục tiêu phi lợi nhuận. Trong khi đó kinh tế
tư nhân luôn coi mục tiêu sinh lời đặt lên vi trí hàng đầu, nếu không sinh lời thì
đồng nghĩa với việc phá sản. Chính vì vậy, thước đo về mức độ sinh lời cũng phản
ánh được sự phát triển lớn mạnh của khu vực kinh tế này. Đương nhiên để sinh lời
thì kinh tế tư nhân phải nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh, phải luôn đổi mới
công nghệ và quản lý…và đây chính là điều khiến cho kinh tế tư nhân luôn năng
động, linh hoạt và là động lực phát triển cho nền kinh tế.
Như vậy, khu vực kinh tế tư nhân hoạt động kinh doanh nhằm mục đích lợi
nhuận là hàng đầu, chính vì vậy đây là đặc điểm khác biệt so với một số doanh
nghiệp thuộc khu vực kinh tế Nhà nước.
Thứ hai: Kinh tế tư nhân có quy mô đa dạng và khả năng tối ưu hoá tổ chức
sản xuất.
Với đặc điểm hoạt động đa dạng trong các lĩnh vực sản xuất kinh doanh nên
kinh tế tư nhân luôn phải lựa chọn các quy mô phù hợp để tối ưu hoá tổ chức sản
xuất, cũng chính vì lẽ đó mà kinh tế tư nhân tồn tại với quy mô rất đa dạng, từ các
công ty xuyên quốc gia khổng lồ cho tới doanh nghiệp nhỏ và vừa. Đây cũng là
điểm khác biệt với các doanh nghiệp thuộc sở hữu nhà nước. Các doanh nghiệp
thuộc sở hữu Nhà nước thường có quy mô khá lớn, rất ít các doanh nghiệp quy mô
5
Nguyễn Xuân Hạnh - 47KTCT
Khoá luận tốt nghiệp
nhỏ. Lý do tồn tại các doanh nghiệp nhà nước có quy mô lớn ở một số nước bởi lẽ,
một số doanh nghiệp cung cấp hàng hoá công cộng hoặc vì một lý do nào đó mà
doanh nghiệp đó được tồn tại độc quyền nên quy mô lớn mới hiệu quả. Tuy nhiên
trên thực tế các doanh nghiệp quy mô lớn thuộc sở hữu nhà nước thường mở rộng
quy mô không vì sự tối ưu hoá sản xuất mà vì động cơ muốn mở rộng doanh nghiệp
để có thêm các đặc quyền và uy lực của người lãnh đạo. Điều này khác với kinh tế
tư nhân, quy mô sản xuất có thể mở rộng hoặc thu hẹp để đạt mục tiêu tối ưu hoá
sản xuất. Cũng chính vì khả năng lựa chọn quy mô sản xuất hợp lý mà các doanh
nghiệp thuộc khu vực tư nhân sử dụng lao động một cách hiệu quả. Các chủ doanh
nghiệp tư nhân thường căn cứ vào yêu cầu thực sự của công việc để tuyển chọn
người và căn cứ vào năng lực đóng góp của người lao động để có cơ chế trả công
hợp lý, khuyến khích được người lao động và đào tạo được một đội ngũ doanh nhân
và công nhân kỹ thuật lành nghề cho nền kinh tế. Đồng thời chủ doanh nghiệp cũng
có thể sa thải ngay tức thì những lao động yếu kém, không hiệu quả. Đây cũng là
điểm khác biệt với cơ chế trả công một cách bình quân chủ nghĩa trong các doanh
nghiệp thuộc sở hữu Nhà nước, và đó là một vật cản lớn cho tính hiệu quả của các
doanh nghiệp này.
Thứ ba: Kinh tế tư nhân là các đơn vị kinh tế có tính năng động và linh hoạt
cao trong hoạt động sản xuất – kinh doanh.
Kinh tế tư nhân ra đời cùng với sự xuất hiện của nền sản xuất hàng hoá, nó
phát triển một cách tự nhiên và đây là điểm khác biệt với các doanh nghiệp thuộc sở
hữu Nhà nước hay sở hữu tập thể, các doanh nghiệp này thường được ra đời với sự
nỗ lực nhân tạo của Nhà nước và tập thể, tiếp theo là hàng loạt các ưu đãi để chúng
tồn tại và phát triển.
Sức sống của nền kinh tế tư nhân thể hiện ở tính năng động và linh hoạt. Với
một ý tưởng kinh doanh khả thi sẽ có thể tức thì được hiện thực hoá bởi các đơn vị
sản xuất kinh doanh thuộc khu vực tư nhân. Quá trình ra quyết định nhanh chóng và
gọn nhẹ đó chỉ có được ở các tổ chức kinh doanh thuộc khu vực tư nhân. Cũng vì sự
ra đời là khách quan và tính năng động, linh hoạt cao nên kinh tế tư nhân có khả
6
Nguyễn Xuân Hạnh - 47KTCT
Khoá luận tốt nghiệp
năng tồn tại và thích ứng với mọi hoàn cảnh khắc nghiệt nhất của nền kinh tế. Thực
tế cho thấy trong thời gian dài, ở các nước xã hội chủ nghĩa trước đây kinh tế tư
nhân vẫn tồn tại ở những loại hình và mức độ khác nhau trong một số lĩnh vực cho
dù nó bị Nhà nước cấm đoán và phong toả ở mọi phương diện. Thực tế cũng cho
thấy khi các chính sách cấm đoán ở các quốc gia này được nới lỏng đôi chút thì
kinh tế tư nhân hồi sinh và phát triển mạnh mẽ như “ nấm sau mưa”. Trong thời kỳ
trước đổi mới, khu vực tư nhân ở Việt Nam vẫn tồn tại xét ở góc độ khu vực tư
nhân phi chính thức. Sau đổi mới kinh tế, khu vực tư nhân phát triển mạnh mẽ mà
không nhận được sự ưu ái của Nhà nước. Các chủ doanh nghiệp tư nhân chỉ yêu cầu
được đối xử công bằng và bình đẳng với các thành phần kinh tế khác chứ họ không
yêu cầu sự ưu ái của Nhà nước đối với họ. Điều này minh chứng rõ tính năng động
và linh hoạt của kinh tế tư nhân trong bất kỳ hoàn cảnh kinh tế nào.
Thứ tư: Kinh tế tư nhân hoạt động dựa trên sự thống nhất giữa quyền sở hữu
và quyền sử dụng tài sản.
Vì kinh tế tư nhân dựa trên hình thức sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất, cho
nên sự tồn tại dưới hình thức là các loại hình doanh nghiệp hay hộ gia đình, người
sản xuất nhỏ thì về bản chất nó vẫn thuộc sở hữu tư nhân. Người chủ sở hữu có
quyền quyết định hoàn toàn mọi quá trình sản xuất kinh doanh và đương nhiên các
quyết định đó đi liền với quyền lợi và trách nhiệm của chính họ. Nguyên tắc hoạt
động của kinh tế tư nhân là “bốn tự”, đó là tự bỏ vốn, tự tổ chức, tự chủ trong kinh
doanh và tự bù lỗ. Đây là cơ chế để gắn kết kết quả hoạt động (lợi ích) với năng lực
hoạt động của chính các chủ doanh nghiệp tư nhân. Kinh tế tư nhân hoạt động bởi
chính vốn liếng của mình (cho dù là vốn vay) nên mọi quyết định phải được cân
nhắc kỹ lưỡng và mang lại hiệu quả, tức phải sinh lời, phải làm cho hoạt động kinh
doanh luôn phát triển, đồng vốn phải không ngừng lớn lên. Điều này khác biệt với
các giám đốc doanh nghiệp Nhà nước hay nhà quản lý trong kinh tế tập thể, họ hoạt
động không dựa trên vốn hay không hoàn toàn trên đồng vốn của chính mình mà đó
là vốn liếng của Nhà nước, của tập thể. Quyền sở hữu và quyền sử dụng tài sản
trong các đơn vị kinh tế này không có sự thống nhất, chính vì vậy mà trách nhiệm
7
Nguyễn Xuân Hạnh - 47KTCT
Khoá luận tốt nghiệp
và quyền lợi thường không đi liền với nhau, do đó các quyết định của họ sẽ có thể
không phản ánh sự thận trọng, kỹ lưỡng và tính hiệu quả. Mục đích lãnh đạo của họ
có thể không chỉ là làm cho doanh nghiệp thu được nhiều lợi nhuận mà là các mục
đích khác như thăng tiến ở một chức vụ quản lý khác cao hơn.
Trên đây là các đặc điểm rõ nét nhất về khu vực kinh tế tư nhân ở các nước
khi so sánh với khu vực kinh tế công cộng và đây cũng là những ưu thế của kinh tế
tư nhân so với kinh tế công cộng trong tính hiệu quả của hoạt động sản xuất kinh
doanh. Tuy nhiên kinh tế tư nhân cũng có mặt trái của nó mà chính vì lẽ đó, sự tồn
tại khu vực kinh tế công cộng ở mọi quốc gia là khách quan và cần thiết bởi vai trò
của chúng trong việc cung cấp hàng hoá công cộng và một số hàng hoá - dịch vụ
khác mà khu vực tư nhân cung cấp không hiệu quả xét về khía cạnh hiệu quả xã hội.
Đối với các nước đang phát triển và đang chuyển đổi, khu vực kinh tế tư
nhân có một số đặc điểm sau:
+ Kinh tế tư nhân ở các nước chuyển đổi được hình thành từ nhiều con
đường khác nhau, ngoài hình thức tự phát triển, thành lập mới các doanh nghiệp tư
nhân thì còn một con đường khác là chuyển đổi sở hữu, tư nhân hoá các xí nghiệp
do Nhà nước sở hữu.
+ Quy mô của khu vực kinh tế tư nhân ở các nước đang phát triển còn nhỏ
bé, chiếm tỷ trọng không nhiều trong GDP, trình độ công nghệ lạc hậu và thiếu kỹ
năng quản trị và kinh nghiệm kinh doanh…
+ Đa phần các doanh nghiệp tư nhân ở các nước đang phát triển có quy mô
vừa và nhỏ, hiệu quả sản xuất kinh doanh còn thấp và năng lực cạnh tranh yếu kém.
Đây cũng là đặc điểm chung của nền kinh tế các nước đang phát triển, số các doanh
nghiệp tư nhân ở các nước này có quy mô lớn là rất ít.
1.2. VAI TRÒ CỦA KINH TẾ TƯ NHÂN TRONG NỀN KINH TẾ QUỐC
DÂN.
Trong một nền kinh tế thị trường, sự tăng trưởng và phát triển của khu vực
tư nhân và sự phát triển của cộng đồng gắn liền với nhau trong một mối quan hệ
8
Nguyễn Xuân Hạnh - 47KTCT
Khoá luận tốt nghiệp
phụ thuộc lẫn nhau. Sự tăng trưởng và phát triển của khu vực tư nhân sẽ đem lại thu
nhập cao hơn, y tế và giáo dục tốt hơn cho người dân và cộng đồng. Mặt khác, đối
với các doanh nghiệp, thu nhập cao hơn có nghĩa là thị trường rộng lớn hơn. Sức
khỏe và giáo dục tốt hơn thì lực lượng lao động có năng suất cao hơn và năng suất
cao hơn sẽ đem lại nhiều lợi nhuận. Vai trò của KTTN trong nền kinh tế thị trường
được thể hiện trên nhiều khía cạnh như đóng góp quan trọng vào ngân sách nhà
nước, tạo công ăn việc làm cho người lao động, huy động nguồn lực trong xã hội
vào sản xuất kinh doanh cho sản xuất kinh doanh…
Thứ nhất: Huy động mọi nguồn lực trong xã hội vào sản xuất kinh doanh, là
động lực chính cho tăng trưởng kinh tế, góp phần quan trọng vào sự phát triển kinh
tế –xã hội đất nước.
Kinh tế tư nhân có vai trò quan trọng trong việc huy động mọi nguồn lực
tiềm ẩn trong xã hội cho phát triển kinh tế. Nguồn lực này có thể tồn tại dưới các
thức khác nhau như: tài chính, đất đai, thiết bị máy móc, kinh nghiệm quản lý, kỹ
năng lao động…sự phát triển kinh tế tư nhân sẽ khai thác và sử dụng hiệu quả các
tiềm năng đó và xã hội hoá các yếu tố sản xuất tập trung vào phát triển kinh tế xã
hội.
Có thể khẳng định ở mọi quốc gia có nền kinh tế thị trường phát triển, khu
vực kinh tế tư nhân có vai trò rất quan trọng đóng góp vào tăng trưởng kinh tế. Do
tính năng động, linh hoạt và hiệu quả nên kinh tế tư nhân luôn có tốc độ tăng trưởng
cao hơn khu vực kinh tế công cộng và sự đóng góp này tạo động lực cho tăng
trưởng kinh tế các nước. Mức độ đóng góp của khu vực kinh tế này vào GDP
thường dao động từ 40-70% GDP của nền kinh tế ở hầu hết các quốc gia.
Nguồn vốn là yếu tố đầu vào cần thiết cho quá trình sản xuất. Trong một nền
kinh tế đang phát triển nguồn vốn rất khan hiếm và đặc biệt đối với các nền kinh tế
chuyển đổi như Việt Nam thì nguồn vốn càng khan hiếm hơn, khi các tổ chức tài
chính chưa phát triển và không có khả năng huy động tiền tiết kiệm từ dân cư, cũng
9
Nguyễn Xuân Hạnh - 47KTCT
Khoá luận tốt nghiệp
như hạn chế của ngân sách trong việc phân bổ vốn cho đầu tư. Do đó khả năng huy
động vốn của khu vực KTTN trở nên rất quan trọng.
Nếu các doanh nghiệp thuộc khu vực KTTN được đặt trong môi trường kinh
doanh bình đẳng và được tạo cơ hội thuận lợi thì các chủ doanh nghiệp có thể tự tin
mạo hiểm với khoản tiền tiết kiệm quý giá của bản thân họ, thậm chí của họ hàng và
bạn bè họ để theo đuổi mục tiêu lợi nhuận. Môi trường kinh doanh bình đẳng sẽ
khiến các chủ doanh nghiệp có thể kiểm soát ở mức độ nào đó các hoạt động và số
phận kinh doanh của họ. Tuy nhiên do hệ thống tài chính kém phát triển nên các
khoản tiền tiết kiệm có thể trở thành vốn sẵn có của các doanh nghiệp nhưng lại tồn
tại dưới hình thức khác nhau nằm ngoài các thể chế tài chính chính thức.
Thứ hai: Phát triển kinh tế tư nhân góp phần tạo ra các cơ hội việc làm. Một
kết quả của việc huy động vốn và hình thành vốn của các doanh nghiệp tư nhân là
tạo ra cơ hội việc làm cho các thành viên khác trong cộng đồng. Việc làm sẽ mạng
lại thu nhập cao cho những người lao động và nâng cao mức sống của gia đình họ.
Nhìn chung, chủ doanh nghiệp thuộc khu vực KTTN khác với các nhà quản
lý ở các doanh nghiệp nhà nước ở chỗ họ có quyền quyết định lớn hơn trong việc
thuê mướn lao động (số lượng, kỹ năng cần thiết của người lao động). Vì vậy không
những các doanh nhân hoàn toàn có thể tăng số lượng lao động làm thuê theo ý họ
mà còn có thể nâng cao hiệu quả trong việc sử dụng nguồn nhân lực trong cộng
đồng.
Thứ ba: Phát triển kinh tế tư nhân góp phần tạo nguồn thu thuế cho chính
phủ đóng góp quan trọng vào ngân sách nhà nước, làm gia tăng tổng sản phẩm quốc
dân, thông qua các khoản thu thuế mà các doanh nghiệp tư nhân phải đóng góp cho
nhà nước. Những năm gần đây khu vực kinh tế tư nhân chiếm tới 49% vào GDP cả
nước. Điều đó chứng tỏ rằng khu vực kinh tế này đang phát triển rất mạnh trong nền
kinh tế và tạo cho nền kinh tế ngày càng mạnh mẽ.
10
Nguyễn Xuân Hạnh - 47KTCT
Khoá luận tốt nghiệp
Cùng với những ưu thế, sức sống tự phát mãnh liệt, và có khả năng lựa chọn
quy mô phù hợp, KTTN là một khu vực năng động, dễ thích nghi. Trong quá trình
hội nhập kinh tế quốc tế cùng với xu thế toàn cầu hoá nền kinh tế và với vai trò
riêng của mình KTTN tạo ra cho mỗi quốc gia nhiều cơ hội phát triển nền kinh tế
của mình.
Tuy nhiên bên cạnh những ưu thế vốn có đó thì KTTN vẫn còn những mặt
hạn chế của mình.
KTTN có thể phá vỡ cơ cấu kinh tế hợp lý của nền kinh tế, do KTTN thường
đầu tư vào ngành thương mại, dịch vụ, sản xuất ở những vùng đông dân cư như thị
xã, thành phố… tức là lượng doanh nghiệp xuất hiện ở thành phố là rất lớn.
KTTN có thể tạo ra sự phân hoá giàu nghèo lớn trong xã hội. Vì đặc điểm
của KTTN là “ mạnh ai nấy chạy” tạo ra sư giãn cách lớn trong thu nhập.
Với quy mô còn nhỏ, khả năng ứng dụng khoa học công nghệ chưa cao vì
vậy trong qúa trình hội nhập kinh tế KTTN rất khó cạnh tranh với các chủ thể kinh
tế bên ngoài.
Vì mục tiêu của KTTN luôn là tối đa hoá lợi nhuận, chạy theo lợi nhuận do
đó họ sẵn sàng bất chấp mọi điều kiện để tăng doanh thu. Nhưng hạn chế mà khu
vực KTTN này mang lại là cũng rất đáng kể. KTTN phát triển mạnh dẫn đến sự tập
trung tài sản vào tay một số cá nhân. Điều này vừa tạo ra sự phân hoá về thu nhập
vừa có thể tạo điều kiện cho một số kẻ lũng đoạn thị trường, rồi chạy theo thu nhập
sẽ làm họ bỏ qua vấn đề môi trường tạo ô nhiễm môi trường và vấn đề công bằng
xã hội mà nền kinh tế nào cũng mong muốn đạt tới.
Như vậy KTTN có vai trò rất tích cực trong qúa trình thúc đẩy sự phát triển
kinh tế, nhưng bên cạnh đó vẫn tồn tại những mặt tiêu cực mang tính chất kìm hãm
sự phát triển của nền kinh tế và của khu vực này. Để hạn chế những tiêu cực này
đòi hỏi Nhà Nước phải có biện pháp can thiệp thích hợp và những chính sách cụ thể
11
Nguyễn Xuân Hạnh - 47KTCT
Khoá luận tốt nghiệp
để có thể làm cho khu vực KTTN phát huy hết những vai trò tích cực của nó và hạn
chế tối đa những mặt tiêu cực mà nó có thể gây ra.
1. 3 KINH NGHIỆM PHÁT TRIỂN KTTN Ở MỘT SỐ QUỐC GIA:
1. 3. 1 Phát triển kinh tế tư nhân ở một số nước:
* Hungary:
Trên thế giới hiện nay có hơn 180 quốc gia có nền kinh tế thị trường với khu
vực tư nhân làm nòng cốt. Tuy nhiên chỉ có hơn 30 quốc gia trong số đó trở nên
giàu có một số nước trước đây đi theo mô hình kế hoạch hoá tập trung, phủ nhận sự
tồn tại của khu vực KTTN do đó mà nền kinh tế đã lâm vào tình trạng trì trệ kém
phát triển.
Sự tồn tại của KTTN trong nền kinh tế thị trường là tất yếu. Tuy nhiên để
phát triển bền vững cần có các điều kiện sau:
- Tự do hoá nền kinh tế, mở rộng tự do cạnh tranh, phát huy tối đa thế mạnh
của cơ chế thị trường tạo điều kiện phát triển KTTN phát huy được vai trò định
hướng điều tiết của Nhà Nước bằng chiến lược và các công cụ chính sách.
- Các nước có khu vực KTTN phát triển đã đạt được những thành công lớn
trong phát triển kinh tế là các nước NIC, Tây Âu, các nước thuộc Châu Á Thái Bình
Dương. Đây là những nước có khu vực KTTN phát triển năng động nhất.
Hungary là nước đầu tiên ở Trung Âu thực hiện cải cách kinh tế và chính trị,
tiên phong trong số các nước xã hội chủ nghĩa thực hiện công cuộc cải cách sang
nền kinh tế thị trường. Về mặt lịch sử, Hungary đã thực hiện những bước đi đầu tiên
trong việc tự do hoá chính sách kinh tế của mình bằng việc đưa ra một “cơ chế kinh
tế mới” với nhiều lần thử nghiệm cải cách vào năm 1953, 1956 và 1968. Hungary
cũng là nước đầu tiên trong khối Đông Âu thực hiện tư nhân hoá trên cơ sở thị
trường (kể cả khu vực mang tính chiến lược như năng lượng và ngân hàng). Những
cải cách khu vực công (y tế, giáo dục) cũng bắt đầu được thực hiện.
12
Nguyễn Xuân Hạnh - 47KTCT
Khoá luận tốt nghiệp
Hai thành quả quan trọng trong thời kỳ chuyển đổi luôn được nhắc tới ở
Hungary là: Tư nhân hoá và thu hút vốn đầu tư nước ngoài. Chiến lược tư nhân hoá
ở Hungary là bán tài sản của nhà nước theo nguyên tắc thị trường. Trong giai đoạn
90 -91 chỉ có 10% tổng số tài sản nhà nước được tư nhân hoá, trong giai đoạn 1992
– 1994 là hơn 40%. Năm 1989, thị phần của khu vực tư nhân tính theo GDP chiếm
18% nhưng tốc độ tư nhân hoá tăng lên, đến cuối năm 1993 khu vực KTTN đóng
góp 50% GDP và cuối năm 1997 là 80%. Đến cuối 1990 quá trình tư nhân hoá coi
như đã hoàn thành: Tài sản của nhà nước chỉ còn chưa đến 20% chủ yếu là trong
ngành công nghiệp mang tính chiến lược.
Tư nhân hoá doanh nghiệp nhà nước là yếu tố quan trọng nhất trong chuyển
đổi thể chế do nó tạo ra cơ sở vật chất cho kinh tế thị trường, đồng thời tạo ra sự
thay đổi tư duy về sở hữu (chuyển sở hữu nhà nước sang sở hữu tư nhân). Nhờ có
sự thống nhất giữa nhà nước và dân chúng nên quá trình tư nhân hoá ở Hungary
diễn ra thuận lợi, không có xung đột gay gắt và kéo theo các chuyển đổi hoà bình
khác trong xã hội. Trong số các nước Đông Âu, Hungary là nước thực hiện quá
trình chuyển đổi sở hữu nhanh và toàn diện hơn cả. Trước năm 1990, hầu hết các
phương tiện sản xuất đều nằm trong tay chính phủ: có 1850 doanh nghiệp nhà nước
với tổng giá trị ghi trên sổ sách vào khoảng 20-25 tỷ USD (khoảng 3000 tỷ HUF
theo tỷ giá hiện nay). Năm 1989 – 1990 lĩnh vực này đóng góp 10 – 15% GDP, hiện
nay là 70-75% GDP, tỷ lệ này tương đương với các nước trong liên minh Châu Âu.
Tuy nhiên quá trình tư nhân hoá ở Hungary không diễn ra đều đặn. Đầu thập
kỷ 90, Hungary đã tiến hành tư nhân hoá những cơ sở kinh doanh nhỏ sau đó mới
tiến hành tư nhân hoá các doanh nghiệp lớn của nhà nước. Kinh nghiệm tư nhân hoá
những doanh nghiệp nhỏ đã giúp cho việc tư nhân hoá những doanh nghiệp lớn
suôn sẻ. Quá trình chuẩn bị tư nhân hoá những doanh nghiệp lớn thực hiện tốt do đã
lựa chọn được đối tượng có đủ khả năng vật chất để tiếp tục duy trì hoạt động có
hiệu quả trên cơ sở đổi mới công nghệ. Việc tư nhân hoá các doanh nghiệp nhà
13
Nguyễn Xuân Hạnh - 47KTCT
Khoá luận tốt nghiệp
nước lớn được thực hiện từ 1993 – 1996 (ngân hàng, doanh nghiệp ngành năng
lượng… )
Tư nhân hoá ở Hungary được thực hiện đại trà từ 1993 – 1997. Năm 1994 do
có bầu cử một số thay đổi cơ cấu chính trị nên quá trình tư nhân hoá chậm lại. Đỉnh
cao của quá trình tư nhân hoá là năm 1995: 1/3 số doanh nghiệp được tư nhân hoá
trong năm 1995, kể cả các ngành chiến lược như điện, năng lượng…
Chính phủ Hungary đã xây dựng cơ sở pháp lý cho việc tư nhân hoá bằng
việc ban hành một số luật. Luật công ty đảm bảo cơ sở cho các công ty cổ phần và
các loại hình công ty hoạt động. Năm 1995, Hungary ban hành luật tư nhân hoá, luật
tổ chức lại doanh nghiệp nhà nước thành công ty cổ phần và công ty trách nhiệm
hữu hạn. Toàn bộ doanh nghiệp nhà nước của Hungary đều được chuyển sang hoạt
động theo luật công ty trước khi tư nhân hoá.
Từ năm 1992 – 1995, các quy định của nhà nước đã thay đổi nhiều lần: Nội
dung điều chỉnh chủ yếu là những doanh nghiệp nhà nước cần duy trì mức sở hữu
50%, 60% hay 100%. Đến năm 1995 đã định nghĩa chính xác doanh nghiệp không
tư nhân hoá bao gồm một số công ty dịch vụ công cộng, chiến lược hoặc quốc
phòng. Hiện nay đã xác định nhà nước sẽ nắm giữ cổ phần lâu dài trong các công ty
điện lực (duy trì mức sở hữu 51%) công ty bán buôn, bán lẻ dược phẩm, công ty
thép và sẽ duy trì lâu dài sở hữu nhà nước trong 3 doanh nghiệp thuộc ngành năng
lượng, 3 doanh nghiệp hàng không, 27 nông trường, 17 lâm trường, 24 doanh
nghiệp giao thông liên tỉnh và một ngân hàng…
Các hình thức tư nhân hoá ở Hungary được quy định rõ ràng trong luật tư
nhân hoá cụ thể:
- Đấu thầu công khai là hình thức chủ yếu được áp dụng. Hơn 90% tài sản
nhà nước được tư nhân hoá thông qua đấu thầu công khai. Nhờ đó đã đạt được tính
chất minh bạch rõ ràng. Trên thực tế, việc tư nhân hoá những công ty lớn được thực
hiện thông qua hình thức đấu thầu để lựa chọn đối tác đầu tư.
14
Nguyễn Xuân Hạnh - 47KTCT

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét