học (Finnegans Wake) của James Joyce hay một chương trình cải cách kinh tế (New Deal). Ở thế
kỷ thứ 20, chúng ta đã trở nên quen thuộc với trí thông minh cấp độ cao trong cuộc sống cùng
những người "mọt sách", nhà trí thức và việ sĩ.
Ngoài ra, còn có cách định nghĩa trí thông minh là khả năng ứng phó thành công với hoàn
cảnh, điều kiện mới và năng lực học hỏi được từ kinh nghiệm đã trải qua của các cá nhân khác.
Nếu xe ô tô của bạn bị hỏng ngay giữa đường cao tốc, ai là người thông minh nhất để giải
quyết vấn đề này? Liệu đó sẽ là một tiến sĩ triết học ở một trường đại học lớn hay là một thợ sửa
xe với trình độ phổ thông trung học? Nếu bạn bị lạc ở giữa một thành phố rộng lớn thì ai có thể
là người giúp đỡ bạn nhiều nhất? Sẽ là một vị giáo sư đãng trí hay là một cậu bé có giác quan
định hướng ưu việt? Có thể thấy trí thông minh phụ thuộc vào hoàn cảnh, nhiệm vụ và những
yêu cầu mà cuộc sống đặt ra cho chúng ta, chứ không phải căn cứ vào một chỉ số IQ, một tấm
bằng đại học hay một chức danh uy tín. Kết quả nghiên cứu trên những chỉ số có tính dự đoán
của các bài kiểm tra IQ đã khẳng định điều này.
Mặc dù các bài kiểm tra trí thông minh dự đoán được những thành công của học sinh, sinh
viên khi còn đang đi học một cách khá vững chắc, nhưng chúng lại thất bại trong việc chỉ ra là
các sinh viên làm việc ra sao trong cuộc sống thực sau khi rời khỏi ghế nhà trường. Một cuộc tìm
hiểu đối với những nhà chuyên môn đã đạt được nhiều thành công trong cuộc sống cho thấy, có
đến 1/3 trong số họ có chỉ số IQ thấp. Như vậy một thông điệp rõ ràng là: Các bài kiểm tra IQ
mới chỉ đánh giá được một thứ có thể tạm gọi là "năng khiếu đi học", trong khi trí thông minh
thật sự phải được hiểu trong phạm vi rất rộng lớn với nhiều loại kỹ năng khác nhau.
Quyển sách này bàn về những cách biểu hiện khác của trí thông minh. Sẽ thú vị hơn việc ta
chỉ nói về trí thông minh như thể nó là một dạng vật chất kì diệu nằm trong não, có thể đo được
bằng cách kiểm tra chỉ số IQ, hay trí thông minh như là một nhiễm sắc thể ưu tú được ban tặng
cho một số ít những cá nhân may mắn ngay từ lúc mới sinh ra, mà thay vào đó chúng ta sẽ đề cập
đến nhiều dạng trí thông minh khác nhau, ta có thể gặp được trên mọi ngả đường của cuộc sống.
Chúng ta sẽ xem xét trí thông minh của một vận động viên, một nghệ sĩ, nhà soạn nhạc, một
viên quản trị, nhà tâm thần học, kế toán viên, người bán hàng, giáo viên tiểu học, thợ hàn, thợ
sửa chữa máy móc, kiến trúc sư và những người khác nữa. Trên phạm vi toàn cầu, chúng ra cũng
sẽ khảo sát về trí thông minh đã và đang tồn tại trong các nền văn hoá khác nhau, bao gồm có tài
năng đi biển của những người Polynesian (Pôlinêdi), khả năng kể chuyện của những người hát
sử thi dân tộc Nam Tư, và sự nhạy bén của những nhà quản lý người Nhật Bản.
Trong quyển sách này bạn sẽ nghiên cứu về một ý tưởng có tính cách mạng, đang ngày càng
thi hút được sự quan tâm của đông đảo các nhà khoa học cũng như của rộng rãi công chúng. Đó
là học thuyết về nhiều loại thông minh khác nhau, được nhà tâm lý học Howard Gardner xây
dựng và phát triển từ 15 năm qua, học thuyết đã thách thức các định kiến cũ về việc như thế nào
là sự khôn khéo,thông minh. Gardner tin tưởng rằng nền văn hoá của chúng ta đã quá tập trung
chú trọng vào lối tư duy lô-gic và tư duy bằng lời nói - đây là những năng lực chủ yếu được đánh
giá trong một bài kiểm tra trí thông minh, trong khi đó đã bỏ qua những dạng khác của trí tuệ và
sự hiểu biết. Ông đưa ra ý kiến là có ít nhất 7 loại trí thông minh khác nhau, đều xứng đáng được
coi như những cách thức quan trọng của suy nghĩ và tư duy.
Bảy loại hình thông minh
Loại thứ nhất là sự thông minh về ngôn ngữ. Đây là trí thông minh của các phóng viên, người
kể chuyện, các nhà thơ và luật sư. Loại tư duy này đã đem lại cho chúng ta tác phẩm "Vua Lear"
của Shakespeare, "Odyssey" của Homer và truyển thuyết "Nghìn lẻ một đêm" của người Ả Rập.
Người có khả năng về ngôn ngữ có thể tranh cãi, thuyết phục, làm trò hay làm hướng dẫn có hiệu
quả bằng việc sử dụng lời nói. Họ thường yêu thích các cách sử dụng âm thanh của từ ngữ, thông
qua sự chơi chữ, trò đố từ và cách uốn lưỡi. Đôi khi họ cũng hay đưa tin vặt bởi vì họ có khả
năng nhớ các sự kiện. Họ có thể trở thành các bậc thầy về đọc và viết. Họ đọc một cách tham
lam, có khả năng viết một cách rõ ràng và có thể phóng đại ý nghĩa lên theo các cách khác nhau
từ những tin bài báo, bức ảnh bình thường.
Loại thứ hai, thông minh lô-gic - toán học, là trí thông minh đối với những con số và sự lô-
gic. Đây là trí thông minh của các nhà khoa học, kế toán viên và những nhà lập trình máy tính.
Newton đã điều khiển và khai thác được loại trí thông minh này khi ông phát minh ra các phép
tính vi phân. Einstein cũng tương tự khi ông xây dựng và ph át triển học thuyết tương đối của
mình. Những nét tiêu biểu nhất của người thiên về trí thông minh lô-gic - toán học gồm có khả
năng xác định nguyên nhân, chuỗi các sự kiện, cách tư duy theo dạng nguyên nhân - kết quả, khả
năng sáng tạo các giả thuyết, tìm ra các mô hình số học hoặc quy tắc dựa trên các khái niệm,
đồng thời ưa thích các quan điểm dựa trên lý trí trong cuộc sống nói chung.
Trí thông minh về không gian là loại năng lực thứ ba, liên quan đến suy nghĩ bằng hình ảnh,
hình tượng và khả năng cảm nhận, chuyển đổi và tái tạo lại những góc độ khác nhau của thế giới
không gian trực quan. Đó là mảnh đất sáng tạo của các kiến trúc sư, nhà nhiếp ảnh, nghệ sĩ, các
phi công và các kĩ sư cơ khí máy móc. Người đã từng thiết kế lên các Kim tự tháp Ai Cập là
người có rất nhiều trí thông minh loại này. Cũng có khả năng như vậy là các cá nhân như
Thomas Edison, Pablo Picasso và Ansel Adam. Những cá nhân sở hữu loại trí thông minh về
không gian ở mức độ cao, thường có một độ nhạy cảm sắc bén với những chi tiết cụ thể trực
quan và có thể hình dung được một cách sống động, vẽ ra hay phác họa những ý tưởng của họ
dưới dạng hình ảnh, đồ hoạ, cũng như họ có khả năng tự định hướng bản thân trong không gian 3
chiều một cách dễ dàng.
Loại trí thông minh về âm nhạc là loại năng lực thứ tư. Đặc điểm cơ bản của loại trí thông
minh này là khả năng cảm nhận, thưởng thức và tạo ra các tiết tấu và nhịp điệu. Đó là trí thông
minh của Bach, Beethoven, hay Brahon, và cũng là loại trí thông minh của các nhạc công đàn
cầm người Ba-li hay những người hát sử thi của dân tộc Nam Tư. Ngoài ra, trí thông minh về âm
nhạc còn có trong tiềm thức của bất cứ cá nhân nào, miễn là người đó có khả năng nghe tốt, có
thế hát theo giai điệu, biết dành thời gian cho âm nhạc và nghe được nhiều tiết mục âm nhạc
khác nhau với sự chính xác và sáng suốt của các giác quan.
Loại thông minh thứ năm, khả năng vận động thân thể, là loại thông minh cả chính bản thân
cơ thể. Nó bao gồm tài năng trong việc điều khiển các hoạt động thân thể của một người và trong
cả thao tác cầm nắm các vật thể một cách khéo léo. Các vận động viên thể thao, những người
làm nghề thủ công, những thợ cơ khí và các bác sĩ phẫu thuật là những người sở hữu khả năng
này của tư duy. Cũng là người như vậy, diễn viên hài vĩ đại Charlie đã sử dụng tài năng loại này
để thực hiện được rất nhiều động tác biểu diễn tài tình của ông như trong vở Kẻ lang thang nhỏ
bé. Các cá nhân thuộc loại tài năng vận động thân thể có thể rất khéo léo và thành công trong
nghề thêu may, nghề thợ mộc hay nghề tạo mẫu. Hoặc họ có thể ham thích và theo đuổi những
hoạt động của cơ thể như đi bộ đường dài, khiêu vũ, chạy bộ, cắm trại, bơi lội hoặc đua thuyền.
Họ là những người thực hành, nhạy cảm, thường xuyên muốn vận động cơ thể của họ và có
"phản ứng bản năng" với các tình huống, sự vật.
Loại thông minh thứ sáu là năng lực tương tác. Đây là năng lực hiểu và làm việc được với
những người khác. Đặc biệt là, điều này yêu cầu có khả năng cảm nhận và dễ chia sẻ với tâm
trạng, tính cách, ý định và mong muốn của những người khác. Thuyền trưởng trên một chiếc tàu
đi biển cần phải có loại thông minh này. Trí thông minh này cũng cần cho một nhà quản lý của
một tổng công ty lớn. Một cá nhân có trí thông minh về giao cảm có thể rất giàu lòng trắc ẩn và
đầy tinh thần trách nhiệm đối với xã hội, chẳng hạn như Mahatma Gandhi; hoặc là người có sức
lôi cuốn và khéo léo như Machiavelli, nhưng họ đều có khả năng nhìn thấu suốt vào bên trong
của những người khác và từ đó nhìn ra viễn cảnh của thế giới bên ngoài bằng chính cặp mắt của
những con người đó. Trong thực tế, họ rất tuyệt vời với vai trò của người môi giới, quản trị
mạng, người hoà giải hoặc là thầy giáo.
Loại trí thông minh cuối cùng là năng lực tự nhận thức bản thân hoặc là trí thông minh nội
tâm. Một người mạnh mẽ về loại trí tuệ này có thể dễ dàng tiếp cận và nhìn rõ được những cảm
xúc của chính bản thân mình, phân biệt được giữa nhiều loại trạng thái tình cảm bên trong và sử
dụng chính những hiểu biết về bản thân mình để làm phong phú thêm và vạch ra con đường cho
cuộc đời mình. Các thí dụ về những người có trí thông minh thiên về kiểu này gồm có các nhà cố
vấn, nhà thần học, những thương nhân. Họ có thể là người rất hay tự xem xét nội tâm và ham
thích được trầm tư suy nghĩ, được ở trong trạng thái tĩnh lặng hay trong các trạng thái tìm hiểu
tinh thần một cách sâu sắc khác. Mặt khác họ có thể là người có tính độc lập mạnh mẽ, tính
thẳng thắn cao độ và cực kỳ tự giác, có kỷ luật. Trong bất cứ trường hợp nào, họ thuộc dạng tự
lập và thích làm việc một mình hơn là làm việc với người khác.
Bạn hãy nhớ rằng, cho dù bạn có nhận thấy một cách rõ ràng bản thân mình thuộc một hoặc
hai dạng thông minh trong số các loại đã được mô tả ở trên, thì trong thực tế bạn vẫn luôn luôn
sở hữu tất cả 7 loại trí thông minh. Hơn thế nữa, một cách lý tưởng là bất kỳ một người bình
thường nào cũng có thể phát triển một trong số 7 loại trí thông minh nói trên của tư duy đến một
mức độ đáng kể để có thể sử dụng thành thạo.
Trong cuộc đời chúng ta, 7 loại hình thông minh được thể hiện theo cách khác nhau và duy
nhất ở mỗi người, không có ai giống ai. Rất hiếm khi có người đạt được một mức độ thông minh
cao ở đầy đủ cả 6 hoặc 7 loại trí thông minh. Vào đầu thể kỷ XX, nhà tư tưởng người Đức
Rudolf Steiner có thể được coi là một ví dụ về người có trí tuệ thông minh như vậy. Ông là một
nhà triết học, nhà văn và là một nhà khoa học. Ông cũng là người sáng tạo ra một loạt các điệu
nhảy, học thuyết về màu sắc và một hệ thống dụng cụ làm vườn, đồng thời ông còn là nhà điêu
khắc, nhà nghiên cứu xã hội cũng như là một kiến trúc sư.
Mặt khác có một số người có vẻ như đã phát triển và đạt đến một trình độ cao chỉ một loại trí
thông minh nào đó, trong khi các loại trí thông minh khác của họ lại phát triển chậm hơn nhiều
và kén hẳn. Đây chính là những nhà bác học của thế giới loài người. Những người giống như
nhân vật Raymond trong bộ phim The Rain Man (Người đàn ông trong mưa) đã đoạt giải Oscar,
đây là những người có thể tính toán các con số bằng tốc độ của ánh sáng nhưng không thể tự
chăm sóc bản thân họ. Hay những cá nhân sở hữu tài năng về điêu khắc song lại không thể đọc
được, hay có những người có khả năng xướng âm một cách hoàn hảo nhưng lại cần người khác
giúp buộc dây giày của họ.
Đa số trong chúng ta là những người có phẩm chất trí tuệ ở vào khoảng giữa của nhà bác học
với một con người tự nhiên phát triển bình thường trong thực tế. Mỗi chúng ta thường có một vài
loại trí thông minh dường như nổi trội một chút, một vài loại trí thông minh khác có thể đạt vào
loại trung bình và vài loại khác nữa được xem như là gây khó khăn cho chúng ta trong cuộc
sống. Dù sao đi nữa, điều quan trọng chúng ta cần phải hiểu là còn có nhiều cơ hội cho tất cả mọi
người để phát triển và toả sáng kể cả với những kiểu trí thông minh không thường được sử dụng
này. Người nông dân, những bậc cha mẹ, hoạ sĩ, những thợ cơ khí, và nhà buôn cũng xứng đáng
sở hữu trí thông minh nhiều như các bác sĩ tâm lý, bác sĩ phẫu thuật não hay các giáo sư luật.
Luận thuyết về nhiều loại trí thông minh đã tập hợp đầy đủ hàng loạt những khả năng của con
người vào một hệ thống gồm 7 loại trí thông minh, tài năng, những loại trí thông minh này có
thể làm cho bất kỳ một cá nhân nào cũng có khả năng thành đạt trong cuộc sống và thu được kết
quả mà mình mong muốn.
Những bằng chứng làm cơ sở cho học thuyết
Thuyết trí thông minh đa dạng không phải là khuôn mẫu đầu tiên đưa ra ý kiến cho rằng: có
nhiều cách khác nhau để trở thành người khôn ngoan. Trong vòng 200 năm qua, đã có rất nhiều
các loại luận thuyết về trí thông minh được đưa ra, theo đó có khoảng từ 1 đến 150 loại trí thông
minh khác nhau. Vậy điều gì làm cho khuôn mẫu về trí tuệ của Gardner trở thành đặc biệt, hữu
dụng và có sức thuyết phục, dẫu sao đi nữa thì đó chính là vì ông đã tìm ra và xác thực được
những kết quả nghiên cứu của mình về vấn đề này từ việc đã nghiên cứu hàng loạt các lĩnh vực
có liên quan: nhân loại học, tâm lý học nhận thức, tâm lý học phát triển, phân tích tâm lý, khoa
học tiểu sử, sinh lý học về động vật, và giải phẫu về thần kinh học. Trong học thuyết của mình,
Gardner đã thiết lập được các yêu cầu cần thiết đặc trưng mà mỗi loại trí thông minh phải đạt
được để có đủ điều kiện xác định đó là một loại trí thông minh. Sau đây là 4 trong số các tiêu
chuẩn ấy:
Đặc điểm 1: Mỗi trí thông minh có khả năng được biểu tượng hoá. Thuyết trí thông minh
đa dạng đã đưa ra một khía cạnh về khái niệm trí thông minh, cho rằng khả năng biểu tượng hoá
trong tư duy con người hay khả năng diễn đạt những ý tưởng, kinh nghiệm thông qua sự miêu tả
các hình ảnh, con số và các từ ngữ, là dấu hiệu để xác nhận đó là trí thông minh của con người.
Khi Vanna White chỉ vào khoảng không trên chữ "pr gram" trên màn hình ti vi đang trình chiếu
trò chơi: "Bánh xe may mắn", phần lớn những người xem ti vi có thể nói ngay chữ cái bị thiếu
mất trong từ trên là gì, bởi vì họ cùng chung một hệ thống ký tự giao tiếp thông thường là tiếng
Anh. Đây là một thí dụ của hệ thống ký tự ngôn ngữ. Thuyết trí thông minh đa dạng cho rằng: có
nhiều cách khác nhau mà mỗi loại trí thông inh có thể sử dụng để biểu tượng hoá. Những người
có tư duy lô-gic toán học sử dụng các con số và các chữ số Hy Lạp, trong số các loại ký hiệu
khác, để đáp ứng các tư duy và nhu cầu có tính lý trí của họ. Ở một mặt khác, những nhà soạn
nhạc hoặc nhạc sĩ lại thường hay sử dụng các nốt nhạc trầm bổng để biểu tượng hóa các giai điệu
và tiết tấu của họ. Marcel Marcean lại sử dụng các cử chỉ động tác phức tạp và sự diễn giải bằng
các dấu hiệu của vận động thân thể để biểu diễn các khái niệm như sự tự do và trạng thái cô đơn.
Ngoài ra cũng còn các ký hiệu mang tính xã hội, chẳng hạn như cái vẫy tay chào tạm biệt và
những ký hiệu của cái tôi, như đã biết, thí dụ như các hình ảnh của giấc mơ vào buổi sáng sớm.
Đặc điểm 2: Mỗi trí thông minh đều có một lịch sử phát triển của riêng nó. Trí thông
minh không phải là một điều gì lạ thường có tính tuyệt đối như những người trung thành với
quan niệm về trí thông minh theo kiểu chỉ số IQ. Những người này cho rằng trí thông minh được
sinh ra rồi được duy trì ổn định, bền vững trong suốt cả chiều dài cuộc đời của mỗi người. Theo
thuyết trí thông minh đa dạng, mỗi loại trí thông minh biểu hiện ra vào một thời điểm xác định
trong thời thơ ấu, chúng đều có một chu kỳ bộc lộ và phát triển tiềm năng rực rỡ trong chiều dài
cuộc đời, và bao gồm cả việc mỗi loại có một hình mẫu duy nhất về quá trình suy giảm nhanh
chóng hay từ từ khi một người bị già đi. Nhà soạn nhạc vĩ đại Mozart đã sáng tạo ra những âm
điệu đơn giản từ khi lên 3 tuổi và viết được những bản giao hưởng vào năm lên 9 tuổi. Những tài
năng âm nhạc vẫn được duy trì và còn tương đối lớn mạnh cả khi tuổi đời đã cao, bằng chứng
trong cuộc sống thực tế là những nhà sáng tác như Pablo Casals, Igor Stravinsky và George
Friedrich Handel.
Loại tư duy lô-gic toán học, một mặt khác, lại có kiểu mô hình phát triển khác với loại trên.
Loại này xuất hiện hơi muộn một chút trong thời thơ ấu, phát triển đạt đến đỉnh cao vào thời
thanh niên, sau đó suy giảm muộn hơn trong cuộc đời của con người. Nhìn vào lịch sử của tư
duy toán học, ta nhận thấy có một số khám phá lớn trong toán học do những nhà bác học có tuổi
đời ngoài 40 tuổi. Sự thực là, nhiều khám phá quan trọng là của những người còn ở độ tuổi niên
thiếu, chẳng hạn như Blaise Pascal và Evaiste Galois. Thậm chí Albert Einstein đã đạt được
những hiểu biết sâu sắc ban đầu về thuyết tương đối khi ông mới 16 tuổi.
Tương tự như vậy, mỗi loại trí thông minh có một mô hình tăng trưởng, phát triển và suy
giảm theo cách riêng của mình, trong vòng đời của con người.
Đặc điểm 3: Mỗi trí thông minh đều sẽ tổn thương và biến mất khi có các tác động xâm
phạm và gây hại đến những vùng đặc trưng riêng biệt của nó trong bộ não người. Thuyết về
trí thông minh đa dạng tiên đoán rằng trong thực tế, trí thông minh có thể bị cô lập khi bộ não bị
tổn thương. Gardner đã đưa ra ý kiến là: Nhằm mục đích được công nhận và có thể tồn tại, bất kỳ
một lý thuyết nào về trí thông minh đều phải dựa trên cơ sở sinh học, nghĩa là được bắt nguồn từ
cấu trúc vật chất của não bộ. Với vai trò là một nhà tâm lý học thần kinh ở Ban quản lý cựu chiến
binh Boston, Gardner đã làm việc với những bệnh nhân bị tổn thương não, một phần nào đó
trong 7 loại trí thông minh của họ bị ảnh hưởng, thí dụ như: Một người có thương tích ở thuỳ
trước trán trong bán cầu não trái thì không thể nói và viết bình thường được nhưng vẫn có thể
hát, vẽ, và nhảy múa không hề có một chút khó khăn nào. Trong trường hợp này thì trí thông
minh về ngôn ngữ của anh ta đã bị suy giảm, hư hại một phần. Mặt khác, những người bị thương
ở thuỳ thái dương bên phải có thể khó khăn khi thực hiện những công việc mang tính chất âm
nhạc, nhưng anh ta có thể nói, đọc và viết một cách dễ dàng. Những bệnh nhân bị thương ở thuỳ
chẩm của bán cầu não bên phải có thể bị suy giảm đáng kể những khả năng về nhận biết gương
mặt, khả năng quan sát hoặc nhận biết những chi tiết trực quan.
Lý thuyết về trí thông minh còn đang tranh luận về việc có tồn tại hay không 7 hệ thống của
não bộ hoạt động một cách tương đối độc lập. Trí thông minh ngôn ngữ xem ra như là một chức
năng chính của bán cầu não trái ở đa số mọi người, trong khi trí thông minh về âm nhạc, không
gian và năng lực tương tác có xu hướng tập trung tại bán cầu não phải nhiều hơn. Trí thông minh
về năng lực vận động thân thể gồm có vỏ não vận động, những hành thần kinh cơ sở và bộ phận
trước não. Thuỳ trước trán là đặc biệt quan trọng đối với trí thông minh của con người.
Bộ não là một tổ hợp phức tạp lạ thường đến mức khó tin nên không thể phân chia ra được
một cách rõ ràng thành 7 khu vực có ranh giới như bản đồ. Tuy nhiên, lý thuyết về trí thông
minh đa dạng đã tổng hợp những kết quả đã được khám phá trong hơn 20 năm qua trong lĩnh vực
tâm lý học thần kinh theo một cách riêng biệt đáng được chú ý.
Đặc điểm 4: Mỗi loại trí thông minh có những nền tảng giá trị văn hoá riêng của
nó. Thuyết trí thông minh đa dạng cho rằng, những biểu lộ của trí thông minh được đánh giá một
cách tốt nhất bằng việc nhìn vào những khả năng đóng góp cao nhất của nó đối với xã hội, chứ
không phải là việc giành được kết quả tốt hay không trong các cuộc kiểm tra. Những kỹ năng
tiêu biểu cho việc kiểm tra chỉ số IQ, chẳng hạn như khả năng lặp lại những con số ngẫu nhiên
theo chiều thuận hoặc chiều ngược, hay năng lực để giải quyết những vấn đề nào đó có tính chất
tương tự như vậy, là làm hạn chế những giá trị văn hoá có trong trí thông minh của con người.
Lần gần đây nhất khi bạn nghe thấy ông bà bế đứa cháu đặt trong lòng và nói: "Ông (bà) muốn
nói với cháu một điều đã rất có ý nghĩa với ông (bà) trước kia, ông (bà) hy vọng rằng giờ đây nó
cũng đầy ý nghĩa đối với cháu: 23,16, 94, 3, 12 ".
Trên một phương diện khác, điều gì đã đem lại những thành tựu và tiến bộ xã hội của chúng
ta, từ thế hệ này đến thế hệ khác như những truyện cổ tích, truyện thần thoại, tác phẩm văn học,
âm nhạc, những môn nghệ thuật lớn, những khám phá khoa học và những kỹ năng vật lý.
Thuyết trí thông minh đa dạng cho rằng, cách tốt nhất để chúng ta có thể học được những
điều thông minh là nghiên cứu, học tập những thí dụ về các công trình văn hoá có ích nhất cho
xã hội chúng ta, đối với từng loại trong số 7lĩnh vực, chẳng hạn: Tác phẩm Moby Dick của
Herman Melville tốt hơn là những âm tiết vô nghĩa trong cẩm nang tra cứu tâm lý; Guernica của
Pablo Picasso tốt hơn những thiết kế hình học trong những bài kiểm tra tính suy luận không gian;
tác phẩm Magna Carta hay Sermon trên núi tốt hơn là "thước đo Vineland" về tính trưởng thành
xã hội.
Ở một mức độ xa hơn nữa, thuyết trí thông minh đa dạng tán thành và ca ngợi tính đa dạng
trong cách mà trí thông minh được thể hiện ở những nền văn hoá khác nhau. Ở đây không coi
các khám phá về từ ngữ và toán học của những người châu Âu da trắng như đỉnh cao của trí
thông minh (mà nếu theo quan niệm này, một lần nữa sự kiểm tra trí tuệ bằng chỉ số IQ lại được
ủng hộ và duy trì), thuyết trí thông minh đa dạng cung cấp một phạm vi quan niệm rộng lớn về
trí thông minh của con người. Trong biểu đồ về trí thông minh này, các loại khả năng về trí tuệ
của con người đều được ca ngợi và tôn trọng như nhau, đó là tài năng tìm đường của những
người dân Himalaya, phương pháp phân loại phức tạp của thổ dân Nam Phi tộc Kalahan, những
thiên tài âm nhạc của nền văn hoá Arang ở đất nước Nigieria, các hệ thống vẽ bản đồ độc nhất vô
nhị của những người đi biển dân tộc Polynesia, và những khả năng đặc biệt của nhiều người khác
trên khắp thế giới.
Bổ sung thêm vào các đặc điểm nội dung trên, thuyết còn đưa ra ý kiến là mỗi loại thông
minh có một quá trình xử lý nhận thức riêng biệt của mình trong các hoạt động của trí nhớ, sự
tập trung, tri giác và cách giải quyết vấn đề. Thí dụ, có thể bạn không thể nhớ các giai điệu,
nhưng lại nhớ hình ảnh gương mặt và con số. Tương tự như vậy, bạn có thể có tri giác nhạy bén
về độ cao của nốt nhạc song bạn không thể phân biệt được sự khác nhau giữa cách phát âm của
chữ "th" và "sh". Thậm chí 7 loại trí thông minh còn có cả lịch sử tiến hoá riêng của mỗi loại.
Trí thông minh về âm nhạc có một phần hàm chứa tiếng hót của chim muông, trong khi trí thông
minh về vận động thân thể xuất hiện từ những hoạt động săn bắn trong những giai đoạn sơ khai
đầu tiên của lịch sử loài người. Những ai muốn thấy các số liệu có thể định lượng được về những
vấn đề trên thì chính các kết quả kiểm tra tâm lý và nghiên cứu thực nghiệm sẽ là một sự ủng hộ
và khẳng định. Lý thuyết về trí thông minh đa dạng không chỉ là một ý kiến đơn thuần. Nó được
lập nên từ việc tổng hợp các kết quả nghiên cứu mới nhất của những đề tài khoa học về trí thông
minh đang hiện hành.
Chương 1: Thuyết trí thông minh đa dạng (tiếp)
Khám phá 7 loại hình thông minh của bạn
Bây giờ bạn đã biết được một vài điều về cơ sở khoa học của thuyết 7 loại hình thông minh
này, hãy xem xem bản thân bạn sẽ khớp với mỗi loại hình thông minh đến mức nào. Trong quá
trình tôi tổ chức các cuộc hội thảo và giảng bài ở trên khắp nước Mỹ, mọi người thường đặt ra
câu hỏi "Có bài kiểm tra nào có thể thử làm để biết được trí thông minh của tôi ra sao hay
không?". Tôi hy vọng rằng không có. Quyển sách này đã được xây dựng trên cơ sở của sự tin
tưởng là trí thông minh rất phong phú và đa dạng, vượt hẳn ra ngoài khái niệm trí thông minh bị
gò ép chỉ trong một bài kiểm tra khoảng 90 phút. Mặc dù vẫn có nhiều bài kiểm tra cá nhân trên
thực tế, chúng đánh giá những khía cạnh khác nhau của 7 loại hình thông minh, nhưng cách tốt
nhất để khám phá xem các kiểu thông minh của bạn nhiều đến mức nào chính là thông qua sự
đánh giá trung thực nhất bằng việc xem bạn đã ứng dụng như thế nào trong cuộc sống hàng
ngày.
Hãy xem xét những gì bạn làm hàng ngày, như là việc sử dụng điện thoại. Bạn có các kỹ năng
gì để ghi nhớ các số điện thoại? Bạn có lặp lại các con số điện thoại bằng cách tự lẩm nhẩm khẽ
đọc chúng trước khi quay số hay không? Nếu có thì đó là bạn đang sử dụng năng lực ngôn ngữ
đấy. Hay bạn hình dung ra được các phím cần bấm trên mặt máy điện thoại như tấm bản đồ có
dạng một mạng kẻ ô vuông. Điều đó phản ánh môt kiểu trí tuệ tư duy theo không gian trong công
việc. Tôi đã từng nghe có người nói rằng họ nhớ số điện thoại bằng các âm điệu đặc trưng của
phím bấm khi nhấn. Những người này phải là những người có trí thông minh về âm nhạc. Một
điều nữa là trí thông minh của một người được sinh ra từ các hoạt động hàng ngày như tiến hành
một cuộc gọi điện thoại chẳng hạn, chứ không phải những vấn đề và công việc được lập ra để
kiểm tra như những gì tìm thấy trong một bài kiểm tra IQ.
Không có một nhóm các khả năng được sắp xếp sẵn từ trước nào đó có thể định nghĩa được
toàn bộ trí thông minh của bạn. Mặc dù vậy, bạn có thể tiến gần đến việc hiểu được kiểu suy
nghĩ của bạn bằng cách khảo sát một ví dụ tiêu biểu trong số các sự kiện vẫn diễn ra thường
xuyên trong cuộc đời của bạn. Danh sách kiểm tra với những đề mục sau đây sẽ giúp bạn làm
điều này. Có một khoảng trống ở cuối mỗi mục để viết về những khả năng khác đã không được
nhấn mạnh trong danh sách kiểm tra. Đừng coi danh sách kiểm tra này như là những gì quyết
định cuối cùng về 7 loại hình trí tuệ của bạn. Còn có nhiều bài tập và các hoạt động khác nhau
trong quyển sách này, chúng sẽ bổ sung thêm vào vốn hiểu biết của bạn cách làm thế nào để bạn
đạt được hiệu quả cao nhất. Hãy nghĩ danh sách kiểm tra này đơn giản chỉ là một cách để bắt đầu
khám phá khi bạn muốn tìm đáp số thực về trí thông minh của bản thân mình.
Danh sách kiểm tra cho các loại trí thông minh
Đối với từng loại trí thông minh, bạn hãy kiểm tra xem những quan điểm dưới đây có đúng
khi áp dụng đối với bạn hay không: (tích vào khoảng trống đầu dòng)
TRÍ THÔNG MINH NGÔN NGỮ:
_____ Những quyển sách rất quan trọng đối với tôi.
_____ Tôi có thể nghe thấy những từ vang lên trong đầu mình trước khi đọc, nói hay viết
chúng ra.
_____ Tôi nghe đài hoặc nghe băng nhiều hơn là xem ti vi hay xem phim.
_____ Tôi có khả năng từ ngữ trong các trò chơi như sắp xếp chữ, đảo ch ữ hay mật khẩu.
_____ Tôi thích giải trí hay chơi những trò nào mà có sự xoắn lưỡi, có những âm điệu vô
nghĩa hay có sự chơi chữ.
_____ Đôi khi những người khác phải dừng lại và đề nghị tôi giải thích ý nghĩa của những từ
ngữ mà tôi sử dụng khi viết và nói.
_____ Tiếng Anh, các môn học xã hội và lịch sử đối với tôi dễ hơn nhiều so với môn toán và
khoa học trong thời gian tôi còn đi học phổ thông.
_____ Khi lái xe thong thả trên xa lộ, tôi có sự chú ý vào những từ ngữ viết trên bảng q uảng
cáo nhiều hơn chú ý quang cảnh xung quanh.
_____ Cuộc nói chuyện, trao đổi của tôi thường liên quan đến những thông tin tham khảo mà
tôi vừa được đọc hoặc nghe thấy.
_____ Gần đây tôi đã viết về một số điều đã làm tôi đặc biệt tự hào hoặc những điều giúp tôi
được nhận ra giữa những người khác.
Những năng lực ngôn ngữ khác:
TRÍ THÔNG MINH LÔ-GIC:
_____ Tôi có thể dễ dàng tính toán các con số trong đầu.
_____ Toán và/hoặc các môn khoa học là những môn học được tôi yêu thích trong số những
môn khi còn học ở nhà trường.
_____ Tôi thích thú với các trò chơi hay giải các câu hỏi hóc búa mang tính trí óc mà chúng
đòi hỏi phải có suy nghĩ lô -gic.
_____ Tôi thích nghĩ ra và làm các thí nghiệm mà có một chút tính chất là "cái gì xảy ra" (Thí
dụ như: "cái gì sẽ xảy ra nếu tôi tăng gấp đôi số lượng nước tôi tưới hàng tuần vào bụi hoa hồng
của tôi").
_____ Suy nghĩ của tôi là tìm tòi những khuôn dạng, luật lệ hay những trật tự có tính lô-gic
trong các sự vật, sự việc.
_____ Tôi ham thích và hứng thú với những phát triển, tiến bộ mới của khoa học.
_____ Tôi tin tưởng rằng hầu hết mọi thứ đều có một cách lý giải hợp lý, chặt chẽ.
_____ Đôi khi tôi tư duy bằng những khái niệm trừu tượng, tách biệt rõ ràng, không có từ ngữ
và hình ảnh.
_____ Tôi thích tìm kiếm những thiếu sót mang tính lô-gic trong những thứ mà mọi người nói
và làm ở nhà và trong công việc.
_____ Tôi cảm thấy thoải mái, dễ chịu hơn khi có một điều gì đó được đo đạc, xếp loại, phân
tích và định lượng theo một phương pháp nào đó.
Những năng lực trí thông minh lô-gic toán học khác:
TRÍ THÔNG MINH KHÔNG GIAN:
_____ Tôi thường thấy được rõ ràng hình ảnh hiện lên khi tôi nhắm mắt lại.
_____ Tôi nhạy cảm với màu sắc.
_____ Tôi thường sử dụng máy quay phim hoặc máy ảnh để ghi lại những gì tôi nhìn
thấy ở xung quanh mình.
_____ Tôi thích thú với việc giải câu đố xếp hình, mê cung hay những câu đố khác sử dụng
hình ảnh.
_____ Tôi có những giấc mơ đầy hình ảnh sống động vào ban đêm.
_____ Nói chung, tôi có thể nhìn thấy đường của mình cả ở những khu vực, địa bàn không
quen biết.
_____ Tôi thích vẽ hoặc viết nguệch ngoạc một cách lơ đãng.
_____ Khi còn đi học phổ thông, đối với tôi môn hình học dễ hơn nhiều so với môn đại số.
_____ Tôi có thể tưởng tượng một cách thoải mái về hình ảnh của một sự vật hoặc một cảnh
bất kỳ nào đó sẽ được hiện ra như thế nào, khi được nhìn từ trên cao xuống bằng đôi mắt của con
chim đang bay.
_____ Tôi thích nhìn ngắm một tài liệu có nhiều hình ảnh minh hoạ hơn là đọc nó.
Những năng lực khác của trí thông minh về không gian:
TRÍ THÔNG MINH VẬN ĐỘNG CƠ THỂ:
_____ Tôi tham gia ít nhất một môn thể thao hoặc hoạt động thân thể đều đặn và thường
xuyên.
_____ Tôi thấy thật khó khăn khi phải ngồi lỳ một chỗ trong một khoảng thời gian dài.
_____ Tôi thích làm việc bằng bàn tay với những công việc, hoạt động có tính cụ thể như
nghề làm may, nghề thêu, chạm khắc, nghề thợ mộc hoặc tạo mẫu.
_____ Những ý tưởng tốt nhất thường đến với tôi khi đang đi dạo hoặc chơi đùa ở bên ngoài,
hoặc khi tôi tham gia vào một vài hoạt động cơ thể khác nào đó.
_____ Tôi thường thích được dùng thời gian rỗi rãi để đi ra ngoài.
_____ Tôi thường sử dụng các cử chỉ phức tạp của tay hoặc các dạng khác của ngông ngữ cơ
thể khi đối thoại, nói chuyện với một người nào đó.
_____ Tôi cần được chạm vào các thứ để có thể hiểu rõ hơn về chúng.
_____ Tôi ham thích được chơi các trò chơi tiêu khiển liều lĩnh, táo bạo hoặc tham gia các
hoạt động thân thể tương tự, có thể đem lại cảm giác mạnh, hồi hộp, sợ hãi với người chơi.
_____ Tôi có thể tự vận động tốt cũng như khi phối hợp với người khác.
_____ Tôi cần được thực tập một kỹ năng mới nhiều hơn là chỉ đọc về nó một cách đơn thuần
hay xem một băng video mô tả về nó.
Những khả năng khác của vận động thân thể:
TRÍ THÔNG MINH ÂM NHẠC:
_____ Tôi có một giọng hát dịu dàng.
_____ Tôi có thể biết và phân loại được khi có một nốt nhạc bị lạc điệu (bị sai).
_____ Tôi thường nghe nhạc ở đài phát thanh, ở đĩa hát, ở băng từ hay ở đĩa CD.
_____ Tôi chơi được một nhạc cụ.
_____ Cuộc sống của tôi sẽ thật nghèo nàn, đơn điệu nếu trong đó không có âm nhạc.
_____ Đôi khi tôi tự nhận thấy mình đang đi bộ trên đường phố với những đoạn quảng cáo
trên ti vi được lặp đi lặp lại trong đầu hoặc những giai điệu nào đó đang lướt qua trong ý nghĩ.
_____ Tôi có thể dễ dàng dành thời gian để nghe một đoạn nhạc được chơi với chỉ một dụng
cụ gõ đơn giản.
_____ Nếu tôi nghe một bản nhạc được tuyển chọn nào đó, sau một hặc hai lần được nghe, tôi
thường có thể hát lại chúng một cách tương đối chính xác.
_____ Tôi thường tạo ra các âm thanh gõ nhè nhẹ hoặc hát những giai điệu nhỏ trong khi làm
việc, nghiên cứu hoặc làm một điều gì mới.
Những năng lực khác về âm nhạc:
TRÍ THÔNG MINH TƯƠNG TÁC CÁ NHÂN:
_____ Tôi thuộc dạng người mà những người khác tìm đến để nghe lời khuyên và tư vấn của
tôi về công việc hoặc về những hàng xóm của tôi.
_____ Tôi thích những môn thể thao có tính đồng đội như cầu lông, bóng chuyền, hay bóng
mềm hơn là những môn thể thao mang tính cá nhân như môn bơi lội hoặc cưỡi ngựa.
_____ Khi gặp phải rắc rối, khó khăn, tôi thích đi tìm một người khác giúp đỡ tôi hơn là việc
tôi cố gắng làm việc để giải quyết được những vướng mắc, khó khăn của bản thân.
_____ Tôi có ít nhất là 3 người bạ n thân.
_____ Tôi yêu thích những trò tiêu khiển có nhiều người tham gia như chơi bài brít hoặc bài
Monopoly hơn là những trò chơi trên máy hoặc trò đánh bài một người.
_____ Tôi thấy thích thú khi có cơ hội được dạy người khác hoặc hướng dẫn cho một nhóm
người làm những điều gì tôi đã biết cách làm.
_____ Tôi tự coi mình là người lãnh đạo (hoặc những người khác gọi tôi như vậy).
_____ Tôi cảm thấy thoải mái khi ở giữa một đám đông người.
_____ Tôi thích tham gia vào những hoạt động xã hội có liên quan đến vông việc của tôi, liên
quan đến nhà thờ hoặc cộng đồng.
_____ Tôi sẽ muốn dành các buổi tối để tham gia các cuộc hội họp đông người sống động
hơn là ở nhà một mình.
Những năng lực giao cảm khác:
TRÍ THÔNG MINH NỘI TÂM:
_____ Tôi thường để thời gian một mình nghiền ngẫm, trầm ngâm hoặc suy nghĩ về những
vấn đề quan trọng trong cuộc sống.
_____ Tôi đều đặn đến dự các buổi tư vấn hoặc các cuộc hội thảo về sự trưởng thành của
con người để hiểu biết nhiều hơn nữa về bản thân mình.
_____ Tôi có những chính kiến khác hẳn làm cho tôi tách biệt với đám đông người.
_____ Tôi có một sự hứng thú hoặc sở thích đặc biệt trong việc giữ kín thật nhiều điều tốt đẹp
cho bản thân.
_____ Tôi có một cách nhìn thực tế về những mặt mạnh và điểm yếu của bản thân mình
(những điều này đã được khẳng định nhờ thông tin phản hồi từ nhiều nguồn tin khác).
_____ Tôi sẽ thích được ở một mình suốt cả thời gian cuối tuần trong một căn hầm nhỏ ở giữa
rừng hơn là ở một khu nghỉ mát hấp dẫn có rất nhiều người xung quanh.
_____ Tôi tự coi mình là người có ý chí mạnh mẽ hoặc là người có khuynh hướng độc lập.
_____ Tôi giữ một cuốn sổ nhật ký cá nhân hoặc một cuốn sổ ghi lại những sự kiện trong đời
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét