Chủ Nhật, 23 tháng 2, 2014

Thực trạng phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ ngoài quốc doanh

DANH MỤC CÁC BIỂU ĐỒ, SƠ ĐỒ




Biểu đồ 2.1. Tỷ trọng loại hình DN vừa và nhỏ ngoài quốc doanh tỉnh
Bắc Ninh 83
Biểu đồ 2.2. Cơ cấu theo ngành kinh tế của các DN vừa và nhỏ ngoài
quốc doanh tỉnh Bắc Ninh năm 2007 84
Biểu đồ 2.3. Tỷ trọng DN vừa và nhỏ ngoài quốc doanh tỉnh Bắc Ninh
theo quy mô vốn năm 2007 85
Biểu đồ 2.4. Doanh thu bình quân 1 DN vừa và nhỏ ngoài quốc doanh 88
Biểu đồ 2.5. Tỷ trọng tổng sản phẩm phân theo ngành kinh tế của các
DN vừa và nhỏ ngoài quốc doanh Bắc Ninh 95

1
LỜI MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Chuyển sang kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, chính sách
phát triển kinh tế nhiều thành phần là một chủ trương khoa học mang tính
chiến lược của Đảng và Nhà nước nhằm phát huy mọi nguồn lực xã hội cho
sản xuất. Với chính sách này, các DN vừa và nhỏ (DNVVN) ngoài quốc
doanh ngày càng có vai trò quan trọng và có nhiều đóng góp tích cực vào sự
tăng trưởng triển kinh tế của đất nước. Nhìn chung, các loại hình DNVVN ở
nước ta trong đó có các DNVVN ngoài quốc doanh chiếm tới gần 96% tổng
số các DN (DN) đã tạo việc làm cho gần nửa số lao động trong các DN nói
chung và đóng góp đáng kể vào kim ngạch xuất khẩu của đất nước. Thực tế,
các DNVVN ngoài quốc doanh đã khẳng định vai trò tích cực của mình vào
quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá (CNH, HĐH) và làm đa dạng hoá nền
kinh tế thị trường ở nước ta.
Tuy nhiên, trong phát triển kinh tế thị trường và gia nhập WTO đã tạo
không ít những thách thức đối với sự phát triển của các DNVVN ngoài quốc
doanh ở nước ta hiện nay. Thực tế đó cho thấy, để các DNVVN ngoài quốc
doanh phát triển cần thiết phải có sự thay đổi mạnh mẽ không chỉ từ phía nhà
nước, mà còn đòi hỏi có sự thay đổi cơ bản từ chính các hoạt động của DNVVN
ngoài quốc doanh để nâng cao năng lực cạnh tranh nhằm phát triển mạnh mẽ
các DNVVN ngoài quốc doanh trong xu thế đổi mới kinh tế của đất nước.
Thời gian qua ở tỉnh Bắc Ninh, các DNVVN ngoài quốc doanh có sự gia
tăng nhanh chóng về số lượng, sự mở rộng về qui mô hoạt động và đã đóng
góp tích cực vào sự tăng trưởng kinh tế của địa phương. Tuy nhiên, hoạt động
của các DN này vẫn còn nhiều khó khăn dẫn đến tình trạng: sản xuất kinh
doanh thiếu ổn định, mang nặng tính tự phát, qui mô nhỏ, hiệu quả kinh
2
doanh thấp, công nghệ lạc hậu, nguồn nhân lực yếu…Từ những khó khăn của
DNVVN ngoài quốc doanh, vấn đề đặt ra là làm gì để các DN này phát triển
và có những đóng góp tích cực vào sự phát triển kinh tế - xã hội của địa
phương. Đó là vấn đề mà các cấp lãnh đạo địa phương rất quan tâm.
Xuất phát từ thực tiễn đó, nghiên cứu sinh (NCS) chọn đề tài “Quá trình
phát triển DN vừa và nhỏ ngoài quốc doanh ở tỉnh Bắc Ninh giai đoạn từ 1997-
2003 - Thực trạng, kinh nghiệm và giải pháp” làm nội dung nghiên cứu.
2. Tổng quan
Nghiên cứu về DNVVN ngoài quốc doanh đã thu hút được sự quan tâm
của nhiều học giả, các nhà hoạch định chính sách trong những năm gần đây.
Một số công trình đã công bố như:
TS. Phạm Thuý Hồng với đề tài “Chiến lược cạnh tranh cho các DN
vừa và nhỏ ở Việt Nam hiện nay” (Nhà xuất bản chính trị quốc gia năm 2004)
đã phân tích thực trạng chiến lược canh tranh của các DNVVN ở Việt Nam,
đề ra các giải pháp, kiến nghị cho các DNVVN trong quá trình hội nhập kinh
tế quốc tế.
GS.TS. Nguyễn Đình Hương với tác phẩm “Giải pháp phát triển
DNVVN ở Việt Nam”, (Nhà xuất bản chính trị quốc gia năm 2002) cũng đã
đưa ra những vấn đề cơ bản về phát triển các DNVVN trong nền kinh tế thị
trường, phân tích thực trạng, định hướng và những giải pháp phát triển
DNVVN ở Việt Nam hiện nay.
GS. TS. Nguyễn Cúc đã thống kê, phân tích thực trạng các chính sách hỗ
trợ DNVVN, từ đó có đề xuất một số điều kiện để phát triển DNVVN ở Việt
Nam trong nội dung cuốn sách “Đổi mới cơ chế và chính sách hỗ trợ phát
triển DNVVN ở Việt Nam” ( Nhà xuất bản chính trị quốc gia năm 2000).
Trong luận án Tiến sĩ kinh tế “Tác động của các chính sách điều tiết kinh tế
vĩ mô của chính phủ đến sự phát triển của DNVVN Việt Nam”, TS. Trần Thị
3
Vân Hoa có một số giải pháp để nâng cao tác động tích cực của các chính sách
sau khi phân tích những vấn đề lý luận về DNVVN, vai trò của Chính phủ đối
với sự phát triển các DNVVN và đánh giá, nhận xét về những tác động đó.
NCS. Chu Thị Thuỷ với luận án Tiến sĩ kinh tế “Một số giải pháp nâng
cao hiệu quả hoạt động kinh doanh của DNVVN Việt Nam” lại đi sâu vào
nghiên cứu những vấn đề bên trong hoạt động của DN để phát triển các DN
bằng cách nâng cao hiệu quả sử dụng vốn, tiết kiệm chi phí, tăng doanh thu.
Nội dung cuốn sách “Một số giải pháp hoàn thiện quản lý nhà nước đối
với DN” của TS. Trang Thị Tuyết (Nhà xuất bản chính trị quốc gia năm 2006)
đã hệ thống hoá cơ sở lý luận về quản lý nhà nước đối với các loại hình DN,
phân tích triệt để thực trạng hoạt động của các loại hình DN nước ta hiện nay
và đề xuất các giải pháp hoàn thiện nhằm đáp ứng yêu cầu đổi mới ở nước ta
trong tình hình hiện nay.
TS. Phạm Văn Hồng với luận án Tiến sĩ kinh tế “Phát triển DNVVN ở
Việt Nam trong quá trình hội nhập quốc tế” đi sâu phân tích lý luận về
DNVVN, kinh nghiệm về phát triển DNVVN ở một số nước, cơ hội và thách
thức của các DNVVN, đề ra một số giải pháp phát triển DNVVN Việt Nam
trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.
Ngoài ra còn có nhiều bài nghiên cứu đăng trên các tạp chí, các bài tham
luận tại hội thảo trong nước và quốc tế để cập đến sự phát triển của các
DNVVN với nhiều nội dung khác nhau.
Nhìn chung, các công trình nghiên cứu về DNVVN, trong đó có
DNVVN ngoài quốc doanh đã xem xét nhiều khía cạnh về môi trường kinh
doanh, hoàn thiện cơ chế chính sách, nâng cao năng lực cạnh tranh.v.v.
Những vấn đề đó có ý nghĩa cả về lý luận và thực tiễn đối với phát triển
DNVVN ngoài quốc doanh. Tuy nhiên, hiện nay chưa có một công trình nào
nghiên cứu về tình hình phát triển DNVVN ngoài quốc doanh ở tỉnh Bắc
4
Ninh từ khi tái lập tỉnh (1997), vấn đề có ý nghĩa cấp thiết trong công tác định
hướng và quản lý với loại hình DN này.
3. Mục đích nghiên cứu
- Luận án nghiên cứu sự phát triển của các DNVVN ngoài quốc doanh ở
tỉnh Bắc Ninh để thấy được thực trạng với những thành công và hạn chế nhằm
tìm ra những giải pháp thúc đẩy sự phát triển của nó trong phát triển kinh tế
thị trường và góp phần đẩy nhanh CNH, HĐH.
- Luận án đề xuất một số giải pháp cụ thể nhằm tiếp tục thúc đẩy sự phát
triển các DNVVN ngoài quốc doanh tỉnh Bắc Ninh trong phát triển kinh tế ở
địa phương hiện nay.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu của luận án là quá trình phát triển DNVVN
ngoài quốc doanh hoạt động theo Luật DN (trừ các Hợp tác xã, hộ kinh doanh
cá thể theo quy định tại Nghị định số 88/2006/NĐ-CP ngày 29 tháng 8 năm
2006 của Chính phủ về đăng ký kinh doanh) ở tỉnh Bắc Ninh.
- Phạm vi nghiên cứu:
+ Về nội dung: Những chính sách của nhà nước và địa phương tác động
đến sự phát triển của DNVVN ngoài quốc doanh, hoạt động của DNVVN
ngoài quốc doanh và những đóng góp của nó đối với sự phát triển kinh tế - xã
hội của địa phương.
+ Thời gian nghiên cứu từ năm 1997 (năm tái lập tỉnh Bắc Ninh) đến nay.
Đồng thời những kinh nghiệm về phát triển DNVVN của một số nước
trên thế giới cũng được nghiên cứu để góp phần làm rõ hơn những vấn đề về
phát triển DNVVN ở nước ta, trong đó có tỉnh Bắc Ninh.
5. Phương pháp nghiên cứu
Trong nghiên cứu, luận án sử dụng các phương pháp như phương pháp
duy vật biện chứng và duy vật lịch sử, phương pháp lịch sử kết hợp với
5
phương pháp logic, đồng thời còn sử dụng các phương pháp phân tích, tổng
hợp, thống kê. Nghiên cứu sự phát triển DNVVN ngoài quốc doanh, NCS còn
khảo sát, tham vấn ý kiến của các nhà DN, các nhà hoạch định chính sách, các
chuyên gia trong nghiên cứu lĩnh vực phát triển DNVVN trong đó có
DNVVN ngoài quốc doanh.
6. Đóng góp mới về khoa học của luận án
- Làm rõ thực trạng phát triển DNVVN ngoài quốc doanh ở một địa
phương cụ thể là tỉnh Bắc Ninh, nhằm tìm ra những giải pháp tiếp tục phát
triển các DN này cho phù hợp với điều kiện đẩy mạnh công nghiệp hoá và
phát triển kinh tế thị trường.
- Đề xuất các giải pháp cụ thể để thực hiện các giải pháp đó đối với phát
triển DNVVN ngoài quốc doanh ở tỉnh Bắc Ninh hiện nay.
7. Kết cấu của luận án
Ngoài lời mở đầu, kết luận, danh mục các bảng, biểu, các chữ viết tắt,
các tài liệu tham khảo, kết cấu của luận án gồm 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn về phát triển DNVVN ngoài
quốc doanh.
Chương 2: Thực trạng phát triển DNVVN ngoài quốc doanh ở tỉnh Bắc
Ninh giai đoạn 1997 đến nay.
Chương 3: Phương hướng và giải pháp phát triển DNVVN ngoài quốc
doanh ở tỉnh Bắc Ninh thời gian tới.

6
CHƯƠNG 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ PHÁT TRIỂN
DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ NGOÀI QUỐC DOANH

1.1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ DOANH NGHIỆP VỪA VÀ NHỎ NGOÀI
QUỐC DOANH
1.1.1. Khái niệm DN vừa và nhỏ ngoài quốc doanh
1.1.1.1. Khái niệm DN vừa và nhỏ
DN là tổ chức kinh tế có tên riêng, có tài sản, có trụ sở giao dịch ổn
định, được đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật nhằm mục đích
thực hiện các hoạt động kinh doanh.
Nói đến DNVVN là nói đến cách phân loại DN dựa trên quy mô của các
DN. Việc phân loại DNVVN phụ thuộc vào loại tiêu thức phân loại quy mô
DN. Điểm khác biệt cơ bản trong khái niệm DNVVN giữa các nước là việc
lựa chọn các tiêu thức đánh giá quy mô DN và lượng hoá các tiêu thức ấy
thông qua những tiêu chuẩn cụ thể. Một số tiêu thức chung, phổ biến nhất
thường được sử dụng trên thế giới là: Số lao động thường xuyên, vốn sản
xuất, doanh thu, lợi nhuận, giá trị gia tăng.
Khái niệm chung nhất về DNVVN có nội dung như sau:
DNVVN là những cơ sở sản xuất - kinh doanh có tư cách pháp nhân kinh
doanh vì mục đích lợi nhuận, có quy mô DN trong những giới hạn nhất định
tính theo các tiêu thức vốn, lao động, doanh thu, giá trị gia tăng thu được
trong từng thời kỳ theo quy định của từng quốc gia.
Tiêu thức về số lao động và vốn phản ánh quy mô sử dụng các yếu tố đầu
vào, còn tiêu thức về doanh thu, lợi nhuận và giá trị gia tăng lại đánh giá quy
mô theo kết quả đầu ra. Mỗi tiêu thức có những mặt tích cực và hạn chế riêng.
Như vậy, để phân loại DNVVN có thể dùng các yếu tố đầu vào hoặc các yếu tố
đầu ra của DN, hoặc là sự kết hợp của cả hai loại yếu tố đó.
7
Việc sử dụng các tiêu thức để phân loại DNVVN ở các nước trên thế
giới có những đặc điểm chủ yếu sau:
- Các nước dùng các tiêu thức khác nhau. Trong số các tiêu thức đó, hai
tiêu thức được sử dụng nhiều nhất ở phần lớn các nước là quy mô vốn và lao
động. Tiêu thức đầu ra được ít nước sử dụng hơn.
- Số lượng tiêu thức sử dụng để phân loại cũng không giống nhau. Có
nước chỉ dùng một tiêu thức nhưng cũng có nhiều nước sử dụng đồng thời hai
hoặc nhiều tiêu thức để phân loại DNVVN. Lượng hoá các tiêu thức này
thành các tiêu chuẩn giới hạn cụ thể ở các nước khác nhau không giống nhau.
Độ lớn của các tiêu chuẩn giới hạn phụ thuộc vào trình độ, hoàn cảnh, điều
kiện phát triển kinh tế, định hướng chính sách và khả năng trợ giúp cho các
DNVVN của mỗi nước. Điều này làm cho số lượng các DNVVN có thể rất
lớn hoặc nhỏ tuỳ theo giới hạn độ lớn khối lượng vốn và lao động sử dụng ở
mỗi nước.
- Khái niệm DNVVN mang tính tương đối, nó thay đổi theo từng giai
đoạn phát triển kinh tế - xã hội nhất định và phụ thuộc vào:
+ Trình độ phát triển kinh tế - xã hội của từng nước. Thông thường các
nước có trình độ phát triển cao thì giới hạn quy định chỉ tiêu quy mô lớn hơn
so với các nước có trình độ phát triển thấp. Chẳng hạn Nhật Bản, các DN ở
khu vực sản xuất phải có số vốn dưới 1 triệu USD và dưới 300 lao động;
trong thương mại, dịch vụ có vốn dưới 300.000 USD và dưới 100 lao động thì
đều thuộc DNVVN. Ở Đài Loan theo quy định hiện nay trong ngành xây
dựng các DN có vốn dưới 1,4 triệu USD, lao động dưới 300 người; trong
công nghiệp khai khoáng các DN có vốn dưới 1,4 triệu USD, 500 lao động và
trong thương mại, dịch vụ có doanh số dưới 1,4 triệu USD và dưới 50 lao
động là những DNVVN. Sự thay đổi quy định này thể hiện khả năng thích
ứng nhanh của cơ chế chính sách quản lý của nhà nước đối với khu vực
8
DNVVN dưới tác động của sự phát triển kinh tế - xã hội và môi trường bên
ngoài. [37, tr.10].
+ Các giới hạn tiêu chuẩn này còn được quy định trong những thời kỳ cụ
thể và có sự thay đổi theo thời gian cho phù hợp với trình độ phát triển kinh tế
- xã hội của từng giai đoạn. Chẳng hạn ở Đài Loan trong 30 năm qua đã có
sáu lần thay đổi quy định giới hạn các tiêu thức phân loại DNVVN.
+ Giới hạn chỉ tiêu độ lớn của các DNVVN được quy định khác nhau
theo những ngành nghề khác nhau. Đa phần các nước có sự phân biệt quy mô
các tiêu thức vốn, lao động sử dụng riêng cho những ngành nghề, lĩnh vực
như sản xuất công nghiệp, thương mại hoặc dịch vụ. Tuy vậy, vẫn có một số
ít các nước dùng chung một tiêu thức cho tất cả các ngành.
- Từng thời kỳ, các tiêu thức và tiêu chuẩn giới hạn lại có sự thay đổi cho
phù hợp với đường lối, chính sách, chiến lược và khả năng hỗ trợ của mỗi quốc
gia. Những tiêu thức phân loại DN vừa và nhỏ được dùng làm căn cứ thiết lập
những chính sách phát triển, hỗ trợ DN vừa và nhỏ của các chính phủ.
Việc xác định giới hạn các tiêu thức này là cơ sở để xác định cơ chế
quản lý với những chính sách ưu tiên thích hợp và xây dựng cơ cấu tổ chức,
quản lý có hiệu quả đối với hệ thống DN này.
Từ những phân tích khái niệm chung về DNVNN, các tiêu thức và giới
hạn tiêu chuẩn, tiêu thức được sử dụng trong phân loại DNVVN trên thế giới
kết hợp với điều kiện cụ thể, những đặc điểm riêng biệt về quan điểm phát
triển kinh tế nhiều thành phần và các chính sách, quy định phát triển kinh tế
của nước ta, khái niệm DNVVN được quy định rõ trong Nghị định số
90/2001/NĐ-CP ngày 23.11.2001 của Chính phủ như sau:
“DNVVN là các cơ sở sản xuất, kinh doanh độc lập đã đăng ký kinh
doanh theo pháp luật hiện hành, có vốn đăng ký không quá 10 tỷ đồng hoặc
số lao động trung bình hàng năm không quá 300 người”.
9
Điều kiện định lượng là có số lao động trung bình dưới 300 lao động và
số vốn đăng ký dưới 10 tỷ đồng. Các tiêu chí này là tương đối phù hợp với
điều kiện kinh tế - xã hội của Việt Nam hiện nay. Việc sử dụng cả hai tiêu chí
trên sẽ khuyến khích các DN vừa sử dụng nhiều lao động lại vừa tập trung
tích tụ vốn để phát triển. Sử dụng một tiêu chí lao động để xác định DNVVN
đồng nghĩa với việc tất cả các DN dù có vốn kinh doanh lớn hay nhỏ đều
được hưởng các chính sách ưu đãi của Chính phủ dành cho các DNVVN.
Điều đó sẽ không hạn chế các DN đầu tư vốn lớn kinh doanh trong lúc vẫn
muốn hưởng ưu đãi từ các chính sách danh cho DNVVN. Tương tự như vậy,
nếu sử dụng tiêu chí vốn kinh doanh thì các DN sử dụng nhiều lao động cũng
vẫn được hưởng lợi từ các chính sách phát triển DNVVN. Vì vậy, việc xác
định DNVVN cần dựa trên cả hai tiêu chí là vốn đăng ký và số lao động
thường xuyên trung bình hàng năm của DN.
1.1.1.2. Các loại hình DN vừa và nhỏ
Căn cứ pháp lý để xác định các loại hình DN trong nền kinh tế nước ta là
luật DN năm 2005, có hiệu lực thi hành từ 01/7/2006 theo luật DN năm 2005
thì các loại hình DN gồm:
- Công ty trách nhiệm hữu hạn: Công ty trách nhiệm hữu hạn (TNHH)
là DN, trong đó thành viên có thể là tổ chức, cá nhân, số lượng thành viên
không vượt quá 50. Thành viên chịu trách nhiệm về các khoản nợ và nghĩa vụ
tài sản khác của DN trong phạm vi số vốn cam kết góp vào DN.
Phần vốn góp của các thành viên chỉ được chuyển nhượng theo quy định
tại điều 43, 44 và 45 của luật DN.
- Công ty trách nhiệm hữu hạn (TNHH) một thành viên: Công ty trách
nhiệm hữu hạn một thành viên là DN do một tổ chức hoặc một cá nhân làm
chủ sở hữu (sau đây gọi là chủ sở hữu công ty); chủ sở hữu công ty chịu trách

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét