Thứ Ba, 25 tháng 2, 2014

Chủ đề trong tiểu thuyết Giông tố, Số đỏ, Làm đĩ của Vũ Trong Phụng

5
cuốn tiểu thuyết cuối cùng mà Vũ Trọng Phụng trăng trối khi chết được
đem mấy tờ bản thảo để lót đầu.
Toàn bộ văn nghiệp của ông từ phóng sự đến truyện ngắn, tiểu
thuyết, kịch, báo chí, văn chính luận; từ tư tưởng, quan niệm nghệ thuật đến
bút pháp hiện thực, nghệ thuật tả chân là một sự thống nhất cao. Do đó, khi
đề cập đến nhà tiểu thuyết Vũ Trọng Phụng, không thể không nhắc đến các
thể loại văn học khác của ông để làm rõ thêm.
Ông bắt đầu tham gia viết văn với truyện ngắn đầu tay Chống nạng
lên đường (1930) và đều đặn cho đến ngày ông mất có đến 41 truyện ngắn
và 4 di cảo truyện ngắn. Theo thống kê trước đây, năm 1934, không thấy
truyện ngắn nào xuất hiện. Gần đây TS. Peter Zinoman (Mỹ) phát hiện
thêm 9 truyện ngắn của Vũ Trọng Phụng ở thư viện quốc gia Pháp. Tất cả
những truyện ngắn trên đều viết năm 1934. Không đặt lên những vấn đề to
lớn như trong phóng sự và tiểu thuyết, truyện ngắn Vũ Trọng Phụng đi vào
những chuyện nhỏ nhặt thường ngày nhưng đó là những chuyện thực sự
làm động lòng người đọc.
Truyện ngắn Vũ Trọng Phụng kêu gọi lòng yêu thương con người
với con người, không nên vì hoàn cảnh mà trở nên xa lạ, khô cứng đến
nhẫn tâm kể cả những người thân yêu, ruột thịt. Mỗi số phận mỗi con người
được nêu lên bên trong ẩn chứa một sự đồng cảm, một nỗi lòng của chính
tác giả. Phần lớn truyện ngắn chuyên khai thác vấn đề tâm lý như Cái ghen
của đàn ông, Lòng tự ái, Máu mê, Một đồng bạc, Con người điêu trá Ngòi
bút phân tích của ông tỏ ra khá tinh tế và sắc sảo. Đây cũng là đóng góp
mới mẻ của Vũ Trọng Phụng vào sự hiện đại hóa thể loại truyện ngắn ở
nước ta.
Qua truyện ngắn, ta bắt gặp ở Vũ Trọng Phụng một phong cách riêng
biệt, gợi nhiều hơn tả. Đọc xong truyện ngoài cái buồn vẩn vơ cũng bắt
người đọc không thôi suy nghĩ, day dứt; bên trong truyện, đằng sau câu chữ
cô đọng những triết lý nhân sinh, đậm chất nhân văn cao cả.
Về thể loại phóng sự, ông đã đóng góp cho văn phóng sự 8 tác phẩm
(tác phẩm Hải Phòng viết năm 1934 mới được tìm thấy), mà tác phẩm nào
đọc xong ta cũng không thể quên được. Nó thời sự, nó hiện thực, tuy đã xảy
6
ra đã gần ba phần tư thế kỷ, nhưng như thấy quanh quất, lởn vởn đâu đây,
không nguyên vẹn thì cũng một phần con người ấy, sự việc ấy trong cuộc
sống. Nó không phải chuyện của một thời, mà chuyện của mọi thời, tiêu
biểu như: Cạm bẫy người, Cơm thầy cơm cô, Một huyện ăn Tết v.v
Vũ Trọng Phụng viết kịch cũng rất sớm, vào năm 1931 đã có tác
phẩm Không một tiếng vang. Nếu kể cả di cảo, kịch Vũ Trọng Phụng có đến
8 vở. Chẳng khác tiểu thuyết và phóng sự, kịch Vũ Trọng Phụng cũng
nhằm vào những mảng hiện thực của đời sống. Những hiện thực bình
thường được Vũ Trọng Phụng gọi tên, nó chẳng xa lạ là bao đối với bao
con người. Ông biết chọn và xây dụng tình huống, xung đột và khi vở kịch
hạ màn, mọi tình huống, xung đột được giải quyết một cách thõa đáng.
Vũ Trọng Phụng dịch vở kịch Giết mẹ - nội dung gần giống với tiểu
thuyết và phóng sự của ông: đầy rẫy những bi kịch.
Văn chính luận, báo chí, tài liệu hiện không còn nhiều. Theo thống
kê của Nguyễn Đăng Mạnh có 13 bài. Bài đầu tiên là Một người công nhân,
in trên Hà Nội báo năm 1936. Vũ Trọng Phụng cũng như nhiều nhà văn
cùng thời trước khi làm văn thường viết báo.
Theo Đỗ Tất Lợi, Vũ Trọng Phụng còn có hàng loạt bài báo ca ngợi
những người yêu nước lúc bấy giờ, như các bài viết về Nguyễn Ái Quốc,
Ký Con, Đoàn Trần Nghiệp.
Ngoài việc phản ánh trung thực người thật việc thật, cái không thể
thiếu trong văn chính luận của Vũ Trọng Phụng là nêu ý kiến chủ quan của
người viết với ngôn ngữ ngắn gọn, chính xác, dễ hiểu, khoa học
Luôn ôm ấp trong người một lý tưởng, một hoài bão làm cho xã hội
tốt đẹp, hoàn thiện hơn, không bằng hình tượng thì cũng qua ngôn ngữ
người kể chuyện, Vũ Trọng Phụng đã để cho con người, cá tính của riêng
ông thẩn thấu qua từng trang sách.
1.1.2. Sự nghiệp văn chương của Vũ Trọng Phụng
Vũ Trọng Phụng là nhà văn đa tài. Ông vừa là nhà phóng sự, nhà tiểu
thuyết, vừa là nhà báo, nhà viết kịch. Và, ở chừng mực nào đó, dựa vào văn
phẩm, cũng có thể gọi ông là nhà tư tưởng, nhà chính trị, nhà giáo dục, nhà
cải cách, nhà văn hóa, nhà cách tân nghệ thuật Nhưng thành công, đóng
7
góp to lớn nhất của ông vào văn học là tiểu thuyết. Bên cạnh đó ông cũng
khá thành công trong lĩnh vực phóng sụ với các tác phẩm “Cạm bẫy người,
Kỹ nghệ lấy Tây”, truyện nhưngắn của ông cũng khá đồ sộ với hơn 25 tác
phẩm tiêu biểu như “Một đồng bạc, tình la dây oan, người có quyền”…
Nếu tiểu thuyết là phản ánh bứa tranh xã hôi, phản ánh hiện thực đời
sống thì Giông tố, Vỡ đê là bức tranh vẽ đầy đủ chi tiết, chân thật đời sống
người dân dưới thời nô lệ; Số đỏ, Làm đĩ, Trúng số độc đắc là một nét khác
xuất thần là bật lên những vết thương rướm máu của cái xã hội được che
phủ bên ngoài lớp sơn văn minh Âu hóa; Dứt tình, Lấy nhau vì tình lại là
một đường cày tâm lý, khơi mở tâm hồn, nhận thức về phương diện tình
yêu, hôn nhân.
Tiểu thuyết Vũ Trọng Phụng không hướng đến những cái xa vời
thoát ly cuộc sống. Nó chính là cuộc sống đang diễn ra từng ngày, từng giờ
mang đậm tính thời sự mà Nguyễn Đăng Mạnh cho đó là “những chân
dung chưa ráo mực”: nhiều nhân vật trong Giông tố, Số đỏ được xem như là
những bức chân dung ký họa chưa ráo mực của một số tên tuổi có thực lúc
bấy giờ.
Tạ Thu Thâu cho rằng muốn biết xã hội Việt Nam ra sao chỉ cần đọc
tiểu thuyết Vũ Trọng Phụng. Dương Nghiễm Mậu khẳng định: “Trong tác
phẩm của Vũ Trọng Phụng là tất cả thời đại ông sống.”
Hiện lên trong tiểu thuyết của Vũ Trọng Phụng không chỉ một mảng,
một khía cạnh, một xã hội khu biệt thành thị hay nông thôn mà là bức tranh
toàn cảnh. Nhân vật của ông nhung nhúc đủ hạng người có tốt, có xấu, có
Tây, có ta, có quan lại, có dân thường, có bọn đầu trâu mặt ngựa, nhưng
cũng có lắm kẻ đạo đức, giàu lương tri
Tóm lại, từ nhân vật đến sự kiện, từ lời ăn tiếng nói đến cách ứng xử
giao tiếp ở bất cứ nhân vật nào, bất cứ ở đâu trong tiểu thuyết Vũ Trọng
Phụng ta cũng thấy đó là những câu chuyện thường ngày. Phải chăng Vũ
Trọng Phụng đã tiểu thuyết hóa cái hiện thực đời thường để nó trở thành
những điển hình không chỉ của thời đại ông mà là những điển hình bất hủ!
8
Ông là nhà văn gắn liền đời sống và tác phẩm và từ tác phẩm phát đi
những tín hiệu riêng biệt của ông trước cuộc đời. Đó là cách nhìn, suy nghĩ,
cảm nhận và phản kháng.
Do dung lượng thể loại cho phép, tiểu thuyết có thể mở rộng, cơi nới
biên độ của mình bằng cách lắp ghép, đưa vào trong đó nhiều thể loại khác,
cả thể loại nghệ thuật lẫn thể loại phi nghệ thuật.
Nguyễn Văn Hạnh nhận định: “Sự nghiệp văn học nhà văn để lại cho
đời thật phong phú và đặc sắc, gồm đủ thể loại: tiểu thuyết, phóng sự,
truyện ngắn, kịch, dịch, phê bình văn học. Trong sáng tác của Vũ Trọng
Phụng, chắc chắn phần có giá trị nhất là tiểu thuyết”. [8, 427]
Không phải là sự cưỡng hôn, hai phạm trù vốn riêng biệt “tiểu
thuyết”, “phóng sự”, do khả năng xâm nhập vào nhau đã kết hợp làm một
thành tiểu thuyết – phóng sự. Vì thế yếu tố phóng sự trong tiểu thuyết của
Vũ Trọng Phụng là điều không lấy gì làm lạ.
Năm 1936 ông đã cho ra đời 5 đứa con tinh thần khá đồ sộ gồm:
Giông tố, Số đỏ, Làm đĩ, Cơm thầy cơm cô, Vỡ đê. Trong 5 tác phẩm này thì
có 3 tác phẩm: Giông tố, Số đỏ, Làm đĩ là gây nhiều xôn xao dư luận trong
giới phê bình và bạn đọc nhất.
1.2. Tiểu thuyết Giông tố, Số đỏ, Làm đĩ
1.2.1. Giông tố
Giông tố được đăng trên Hà Nội báo từ số 1 (tháng Giêng 1936),
được 11 số thì đổi tên là Thị Mịch; in thành sách năm 1937 với tên cũ. Nxb
Văn Thanh, Hà Nội, in trọn vẹn năm 1937.
Mịch, một cô gái quê, trong một đêm trăng đi gánh rạ, bị Nghị Hách,
một triệu phú, lừa vào xe hơi để cưỡng dâm. Ông đồ Uẩn, bố của Mịch và
lý dịch trong làng đưa đơn kiện. Họ được quan Huyện Liên, trẻ tuổi, đã
từng đỗ khoa Tiến sĩ Luật ở Pari, có ý bênh vực nhưng Nghị Hách được
quan Tổng đốc che chở, đã đánh bại đối phương dễ dàng. Quan Huyện trẻ
phải từ chức; quan Huyện mới về bên Nghị Hách ra mặt. Cuối cùng, do sự
thu xếp của Tú Anh – con cả của Nghị Hách, Giám đốc một trường tư thực
lớn ở Hà Nội - Mịch trở thành vợ lẽ của lão, trong khi lão đã có 11 cô nàng
hầu. Còn Long, thư ký làm công của Tú Anh và là chồng chưa cưới của
9
Mịch, trở thành vị hôn phu của Tuyết, con gái lớn của Nghi Hách cũng do
sự thu xếp của Tú Anh. Nghị Hách được sự ủng hộ của một công ty tư bản
Pháp đang muốn móc ngoặc với lão để nắm độc quyền nước mắm, lại ra
tranh cử Nghị viện và quyết giành cả ghế nghị trưởng. Bổng có một ông già
bí mật xuất hiện. Ông già đó là Hải Vân, nguyên bạn cũ của Nghị Hách, đã
từng bị lão lừa đẩy vào tù rồi cướp vợ; giờ đây ông hoạt động ở nước ngoài
mới trở về, không định trả thù xưa, chỉ muốn kiếm một cách đường hoàng
từ người bạn cũ ghê gớm này một món tiền lớn để gây quỹ cho tổ chức
cách mạng. Ông đến xem mạch đất và số tử vi cho lão. Do ông bố trí Nghị
Hách được chứng kiến cảnh vợ cả lão ngoại tình. Bên giường dâm phụ ông
già còn vạch cho Nghị Hách biết: chính Long là con đẻ lão do lão quyến rũ
vợ ông mà sinh ra, còn Tú Anh thì lại là con của ông chứ không phải như
Nghị Hách tưởng lầm! Mặc dù đau đớn về tinh thần, Nghị Hách vẫn lao
vào những thủ đoạn hoạt động tranh cử. Để mua tiếng “bình dân”, lão đã
phát chẩn cho dân nghèo và được thưởng Bắc Đẩu bội tinh. Lão còn trâng
tráo tuyên bố trong một bữa tiệc sang trọng rằng lão chọn Long “đứa trẻ mồ
côi vô thừa nhận” (mà giờ đây lão biết là máu mủ lão), làm chồng con gái
lão! Một đêm “Giông tố” mịt mùng bên bờ biển, Hải Vân chia tay Tú
Anh để lên đường. Ông khuyên con ở lại “Cố gắng làm những việc hữu ích
cho dân chúng trong vòng pháp luật”. Đoạn kết: trong một đêm ăn chơi trác
táng ở xóm Khâm Thiên, Long đã cắt mạch máu tự tử. Cuộc chung đụng
loạn luân với Tuyết, cuộc sống vung vãi tiền bạc làm tiêu ma chí khí khiến
Long bị lương tâm dày vò, chán chường cực độ, không còn thấy nghĩa lý
cuộc sống ở đời
Giông tố còn có chỗ yếu về nghệ thuật nhưng đã thể hiện một bút lực
mãnh liệt và tài năng tiểu thuyết xuất sắc của Vũ Trọng Phụng. Nét nổi bật
nhất của tài năng đó là sức bao quát, tổng hợp cao để phản ánh một hiện
thực phức tạp và đầy biến động; đã dựng nên một loạt hình tượng nhân vật
chân thực sinh động, trong đó có những điển hình nghệ thuật giàu sức sống.
Cũng như Số đỏ, Giông tố có thể được coi là một trong mấy kiệt tác của văn
xuôi Việt Nam trước 1945.
1.2.2. Số đỏ
10
Số đỏ là tiểu thuyết trào phúng của nhà văn Việt Nam Vũ Trọng
Phụng, đăng trên Hà Nội báo từ số 40 (ra ngày 7. X. 1936), Lê Cường in
thành sách lần thứ nhất, 1938. Xuân – thường gọi là Xuân Tóc Đỏ - làm
nghề nhặt ban quần vợt ở một quán thể thao. Hắn vốn là một đứa trẻ mồ côi
sống bằng đủ nghề “hạ lưu”: trèo me, trèo sấu, bán phá xa, lạc rang, nhật
trình, chạy chờ rạp hát, thổi loa quảng cáo thuốc lậu , và hấp thu thứ “luân
lý vỉa hè” Hà Nội. Bị đuổi việc vì một hành động vô giáo dục, hắn được bà
Phó Đoan, một me tây góa dâm đãng, đem “lòng thương”, giới thiệu đến
giúp việc ở tiệm may “Âu hóa” của Văn Minh – cháu bà – nơi chuyên may
các mốt y phục “phục vụ phái đẹp trong cuộc Âu hóa”. Đồng thời, hắn còn
được giao việc luyện quần vợt cho bà Phó Đoan và Văn Minh vợ. Và như
vậy, Xuân bắt đầu “dự một phần vào việc cải cách xã hội”, có trách nhiệm
về việc “xã hội văn minh hay dã man”! Có lần nhờ thuộc lòng lời quảng
cáo trước kia mà hắn được Văn Minh giới thiệu là “sinh viên trường
thuốc”. Thế là, “đốc tờ Xuân”, “quản lý tiệm may Âu hóa”, nhà “cải cách
xã hội”, “Giáo sư quần vợt”, nghiễm nhiên gia nhập cái xã hội thượng lưu,
giao thiệp với những họa sĩ Típ Phờ Nờ, đốc tờ Trực Ngôn, nhà chính trị
bảo hoàng Jôzep Thiết, ông Phán dây thép mọc sừng Cô Tuyết, con gái út
cụ cố Hồng, em gái Văn Minh, thì phải lòng Xuân, rủ hắn thuê buồng trên
khách sạn Bồng Lai ở Hồ Tây. Rồi hắn được bà Phó Đoan mời làm người
giáo dục cho cậu Phước “con trời con phật” của bà, được sư Tăng Phú mời
làm cố vấn báo Gõ mõ cổ động cho việc chấn hưng đạo Phật!. Trong không
khí đầy sự giả trá ấy, Xuân được mọi người kính nể, sợ hãi. Sự ngây ngô
của hắn được coi là nhũn nhặn; hắn càng khinh người thì càng được kính
trọng. Vợ chồng Văn Minh biết rõ lý lịch hèn hạ của Xuân thì ở vào tình
thế há miệng mắc quai, còn phải tìm cách tô vẽ cho Xuân để nếu cần có thể
gả em gái đã mang tiếng hư hỏng cho hắn. Đến khi vô tình gây ra cái chết
của cụ tổ, cái chết mà tất cả con cháu cụ mong đợi, Xuân hóa ra lại có công
lớn với mọi người! Sau đó, Văn Minh dẫn Xuân đi đăng ký làm tài tử quần
vợt, tham dự giải vô địch trong dịp vua Xiêm sang thăm Bắc Kỳ nay mai.
Rồi dịp may ấy đã đến. Anh chàng vị hôn phu của Tuyết bày mưu hại Xuân
song ngẫu nhiên Xuân biết được, bèn tương kế tựu kế, khiến cho hai đối thủ
11
quần vợt lợi hại của hắn bị bắt trước hôm thi đấu. Thế là, trước khi hai đức
vua và các “quý quan” cùng hàng vạn công chúng Hà thành, Xuân được cử
ra đọ tài với quán quân quần vợt Xiêm La. Cuộc đấu đang diễn ra sôi nỗi,
hồi hộp thì bỗng Xuân được lệnh phải thua, vì “phải giữ gìn mối thiện cảm
của một nước lân bang”, tránh thảm họa “núi xương sông máu”!. Sau trận
đấu về, Xuân đứng trên mui ô tô mà diễn thuyết rất hùng hồn theo lời nhắc
của ông bầu Văn Minh, giải thích cho đám đông công chúng “ngu dại” rằng
hắn đã “chối từ danh vọng riêng” để cứu vãn “trật tự và hòa bình của Tổ
quốc”! Mọi người vỗ tay như sấm hoan nghênh một “bậc vĩ nhân”, “anh
hùng cứu quốc” vừa mới tránh cho họ nguy cơ chiến tranh! Hắn được Phủ
Toàn quyền quyết định ân thưởng Bắc Đẩu bội tinh, được Hoàng đế An
Nam ân thưởng Long bội tinh, được Hội Khai trí tiến đức mời vào Hội. Cụ
cố Hồng sung sướng tuyên bố gã Tuyết cho hắn
Với trình độ tiểu thuyết già dặn, bút pháp châm biếm đặc biệt sắc
sảo, với tiếng cười nhiều cung bậc và đa nghĩa, Số đỏ là một trong những
kiệt tác của văn xuôi Việt Nam hiện đại, trước hết là trong thể loại tiểu
thuyết trào phúng.
1.2.3. Làm đĩ
Làm đĩ, viết vào tháng mười năm 1936. Tác phẩm viết về số phận
của Huyền, một cô gái nổi tiếng thông minh, xinh đẹp cả một vùng. Sinh ra
trong một gia đình danh giá, Huyền từ nhỏ đã là một đứa có tính tò mò, cô
hỏi đủ mọi điều mà mình quan tâm về sinh lý của con người, nhưng những
câu hỏi được đáp lại không mang tính xác thực khiến tính tò mò của Huyền
lúc một lớn thêm. Sự giáo dục của gia đình không tốt khiến cho Huyền
được thằng Ngôn dạy cho những điều tò mò quá sớm không cần thiết. Càng
lớn Huyền càng xinh đẹp được nhiều người để ý đến, sự lớn thêm về tuổi
làm cho Huyền càng ngày càng suy nghĩ nhiều về chuyện nam nữ. Gia đình
cô có một thời gian không hạnh phúc - bố lấy vợ lẽ, mẹ bỏ về quê sống, anh
trai thì hư hỏng. Phong trào tân thời rộ lên Huyền không ngoài số đó, sự
thay đổi của cô bắt đầu từ cái quần trắng thời đó. Huyền thông dâm với anh
họ là Nguyễn Lưu, ba mẹ Huyền đã tìn cho nàng một người đầy đủ tư chất.
Lưu đã tìm mọi cách để hai người đến với nhau nhưng không được, lưu
12
chết để lại cho Huyền một nổi đau nhưng nàng vẫn đủ nghị lực để lên xe
hoa về nhà chồng, tưởng chừng bên người chồng lịch lãm giàu có thì một
cuộc sống mới sẽ đến với nàng. Nhưng không, chồng nàng bị bệnh giang
mai, cuộc sống vợ chồng thiếu thốn tình cảm Huyền đã phải lòng một
người bạn của chồng là Tân - một người giáu có, phong tình. Những cuộc
vụng trộm rồi dần dà chồng nàng phát hiện ra từ đó đối xử với nàng ghẻ
lạnh, người tình thì bỏ rơi. Sống trong sự đau khổ về mặt tinh thần lại biết
tin Tân đang vui vẻ ở Sài thành với ý định trả thù cho mình và cho người
chồng mọc sừng của mình nàng tìm vào Sài Gòn trả thù, sau nhiều cuộc tìm
kiếm Tân, Huyền không còn tiền. Và thế Huyền dấn thân vào cuộc đời
mưa gió làm một gái giang hồ. Sau này tình cờ Huyền gặp lại người quen
cũ sau một hồi tâm sự nàng đem hết tâm huyết của mình viêt thành một
quyển nhật ký cho đời
Làm đĩ, tác phẩm gióng lên hồi chuông cảnh tỉnh tố cáo chế độ giáo
dục của xã hội đương thời.
13
Chương 2 Chủ đề trong Giông tố, Số đỏ, Làm đĩ
2.1. Giông tố, Số đỏ, Làm đĩ nhìn từ góc độ đề tài
Đề tài, thuật ngữ chỉ phạm vi các sự kiện tạo nên cơ sở chất liệu đời
sống của tác phẩm đồng thời gắn liền với việc xác lập chủ đề của tác phẩm.
Tầm quan trọng của khái niệm đề tài là ở chỗ, nếu chưa nhận ra đề
tài, thì chưa bước vào tiếp nhận hình tượng. Tuy nhiên, từ hiện tượng nghệ
thuật sinh động nhận ra loại con người và cuộc sống được phản ánh trong
tác phẩm không phải là một việc đơn giản.
Giới hạn của phạm vi đề tài có thể được xác định rộng hẹp khác
nhau. Đó có thể là một giới hạn bề ngoài, ở giới hạn bề ngoài đề tài thuộc
các phạm trù xã hội, lịch sử đóng vai trò rất quan trọng. Tuy nhiên, đối
tượng nhận thức của văn học là cuộc sống, con người xã hội với tính cách
và số phận của nó, với quan hệ nhân sinh phức tạp của nó. Do vậy, cần đi
sâu vào phương diện bên trong của đề tài. Đó là cuộc sống nào, con người
nào được miêu tả trong tác phẩm.
Đề tài của tác phẩm là một phương diện nội dung tác phẩm, là đối
tượng đã được nhận thức, kết quả lựa chọn của nhà văn. Đó là sự khái quát
về phạm vi xã hội, lịch sử của đời sống được phản ánh trong tác phẩm.
Thực chất đề tài là một khái niệm về loại của hiện tượng đời sống
được miêu tả. Có bao nhiêu hiện tượng đời sống, có bấy nhiêu đề tài.
Khái niệm loại của đề tài không chỉ bắt nguồn từ bản chất xã hội của
tính cách, mà còn gắn liền với loại hiện tượng lịch sử xuất hiện trong đời
sống và có âm vang trong đời sống tinh thần một thời, hoặc trong một giới
nào đó.
Đề tài tác phẩm văn học chẳng những gắn liền với hiện thực khách
quan mà còn do lập trường tư tưởng và vốn sống nhà văn quy định.
Tóm lại, đề tài là cơ sở để nhà văn khái quát những chủ để và xây
dựng những hình tượng, những tính cách điển hình.
Giông tố là một tác phẩm phản ánh hiện thực xã hội đương thời trên
một phạm vi rộng với hàng loạt nhân vật thuộc nhiều tầng lớp khác nhau,
hoạt động trong nhưng môi trường rất khác nhau, tất cả đều quay cuồng,
14
đảo lộn trong một cuộc đời đầy bất công và hết sức thối nát. Nghị Hách là
một điển hình nghệ thuật bất hủ về tầng lớp tư sản đại địa chủ bản xứ với
một lý lịch làm giàu và tiến thân đầy tội ác, với lối sống hết sức xa hoa,
dâm đãng, với lập trường “trung thành với hai nhà nước” và ôm chân quan
lại, thực dân, nhảy vào chính trị với thái độ cơ hội trâng tráo. Giông tố đã
đề cập đến hàng loạt vấn đề về chính trị thời sự nóng hổi khi đó với ngòi
bút đã kích cay độc: việc chạy theo phong trào bình dân một cách bịp bợm
của bọn đầu cơ chính trị, sự cấu kết của tư bản Pháp và phản động bản xứ,
trò hề Viện Dân biểu, phong trào “vui vẻ trẻ trung” và cuộc sống ăn chơi
trụy lạc trong lớp thanh niên thành thị Trong tác phẩm, nhà văn đã gửi
gắm niềm hy vọng cải tạo xã hội vào những cá nhân “nhân phẩm cao, học
thức cao, có tim có óc”, dù là một quan cai trị thực dân biết thương người
bản xứ, một quan Huyện đã đỗ “Luật khoa Tiến sĩ”, một trí thức con cưng
nhà triệu phú, hay một “nhà cách mạng quốc tế”. Hình tượng “nhà cách
mạng quốc tế” – ông già Hải Vân tuy không chân thực song cũng toát lên
một vẻ đầy lãng mạn của một con người phong trần, khí phách lớn.
Bằng ngòi bút trào phúng độc đáo, Số đỏ lên án gay gắt cái xã hội tư
sản thành thị Việt Nam đang chạy theo lối văn minh rỡm hết sức lố lăng đồi
bại đương thời. Tác giả đả kích cay độc các phong trào “Âu hóa, thể thao,
giải phóng nữ quyền” đang phát triển rầm rộ khi ấy, nhân danh “văn minh,
tiến bộ, cải cách xã hội” mà thực chất là ăn chơi trụy lạc, làm tiền, chà đạp
trắng trợn lên mọi nền nếp đạo đức truyền thống. Số đỏ cũng phơi trần bộ
mặt trơ trẽn của bọn người trưởng giả, phè phỡn, đã chạy theo phong trào
bình dân như một cái “mốt” khi đó. Ngòi bút châm biếm sắc sảo của Vũ
Trọng Phụng cũng không quên đề cập đến phong trào “thơ mới” lãng mạn,
khuynh hướng nghệ thuật “hũ nút”, tới những tổ chức do thực dân đỡ đầu
như Hội Chấn hưng Phật giáo, Hội Khai trí tiến đức, tới cả bộ máy chính
quyền thực dân, từ đám cảnh sát đến Phủ Toàn quyền, Thống sứ, vua ta,
vua Xiêm cũng bị đưa lên cái sân khấu trò hề Số đỏ. Do đó, Số đỏ tuy chỉ
tập trung phê phán xã hội tư sản về phương diện đạo đức, sinh hoạt trong
tác phẩm vẫn có màu sắc thời sự rõ rệt. Số đỏ đã đưa ra một loạt chân dung
biếm họa rất mực sinh động về gần đủ loại nhân vật tiêu biểu cho cái xã hội

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét