Thứ Ba, 25 tháng 2, 2014

Một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng hoạt động tự doanh chứng khoán của Công ty Cổ phần Chứng khoán An Bình

khoán trên thị trường là nhà đầu tư sẽ sở hữu được chứng khoán này hoặc
chứng khoán khác hay chuyển đổi chứng khoán thành tiền trong thời gian
ngắn nhất có thể khi họ cần. Sự an toàn về vốn đầu tư mà chứng khoán mang
lại này là lực hấp dẫn lớn đối với các nhà đầu tư.
1.1.2.4. Chức năng đánh giá hoạt động của doanh nghiệp.
Theo như luật chứng khoán thì các doanh nghiệp niêm yết trên thị
trường phải có công bố thông tin về hoạt động và sự thay đổi trong công ty
của mình ra công chúng theo định kì. Vì thế các nhà đầu tư biết được doanh
nghiệp đó làm ăn có lãi lỗ thế nào, có những sự thay đổi nào trong công ty.
Từ đó họ đưa ra những quyết định đầu tư và điều này ảnh hưởng đến giá
chứng khoán trên thị trường.
Ngược lại khi nhìn vào giá chứng khoán thì có thể so sánh hiệu quả
hoạt động, niềm tin của nhà đầu tư đối với các doanh nghiệp với nhau. Thị
trường chứng khoán là thị trường cạnh tranh lành mạnh, nâng cao được hiệu
quả sử dụng vốn, kích thích cải tiến để phát triển.
1.1.2.5. Chức năng tạo môi trường giúp chính phủ thực hiện các chính sách
kinh tế vĩ mô.
Thị trường chứng khoán là nơi tập trung các nhà đầu tư, khi thị trường
có dấu hiệu lên hay xuống sẽ cho thấy nhà đầu tư đang mở rộng hay thu hẹp
đầu tư. Giá chứng khoán cho biết trực tiếp nền kinh tế đang có biểu hiện tích
cực hay tiêu cực. Thông qua thị trường chứng khoán chính phủ có thể sử dụng
các chính sách kinh tế vĩ mô nhằm định hướng cho các nhà đầu tư để đảm bảo
cho sự phát triển cân đối của nền kinh tế. Và thị trường chứng khoán chính là
nơi chính phủ có thể phát hành trái phiếu có hiệu quả để tạo nguồn thu bù đắp
thâm hụt ngân sách, quản lý lạm phát.
Nguyễn Thị Tâm QLKT46B
1.1.3. Phân loại thị trường chứng khoán.
1.1.3.1. Căn cứ vào sự luân chuyển các nguồn vốn gồm có thị trường sơ cấp và
thị trường thứ cấp.
Thị trường sơ cấp là thị trường mua bán các chứng khoán mới phát
hành. Thông qua thị trường sơ cấp các công ty có thể huy động vốn qua việc
phát hành chứng khoán, các khoản tiền trong dân cư được huy động một cách
có hiệu quả. Thường thì đây là nơi duy nhất để huy động vốn bằng chứng
khoán, giá của chứng khoán thì do các nhà phát hành, hoặc công ty tư vấn
phát hành xác định, nó được in ngay trên chứng khoán mà không thay đổi và
không có nhà đầu tư nơi đây mà chỉ có các công ty chứng khoán, kho bạc,
ngân hàng nhà nước…
Khác với thị trường sơ cấp, thị trường thứ cấp lại là nơi giao dịch các
chứng khoán đã được phát hành trên thị trường sơ cấp. Và giá của chứng
khoán do thị trường quyết định theo nguyên tắc cạnh tranh, sự chênh lệch về
giá của chứng khoán tạo ra khoản tiền thu được mà nó sẽ thuộc về nhà đầu tư,
nhà kinh doanh chứng khoán chứ không thuộc về công ty phát hành chứng
khoán. Và hoạt động trên thị trường sơ cấp là hoạt động liên tục và nhiều lần,
các nhà đầu tư tự do mua bán mà không có cản trở gì. Hoạt động mua bán
trên thị trường không làm thay đổi vốn của công ty phát hành.
1.1.3.2. Căn cứ vào phương thức hoạt động của thị trường chứng khoán gồm
có thị trường tập trung và thị trường phi tập trung.
Thị trường chứng khoán tập trung là thị trường hoạt động theo đúng
các quy định của pháp luật, là nơi các nhà đầu tư, người môi giới tập trung
giao dịch tại thị trường nhất định, thường là Sở giao dịch chứng khoán. Tính
tập trung thể hiện ở chỗ thông qua các công ty chứng khoán các lệnh được đặt
sẽ được chuyển tới sàn giao dịch và ở đó tiến hành ghép lệnh theo các nguyên
tắc ưu tiên về giá và thời gian, số lượng giao dịch Giá giao dịch được hình
Nguyễn Thị Tâm QLKT46B
thành trên thị trường thông qua sự đấu tranh của các nhà đầu tư. Và trên thị
trường này chịu sự kiểm soát của ủy ban chứng khoán nhà nước, các cơ quan
có thẩm quyền.
Thị trường chứng khoán phi tập trung (OTC) là thị trường diễn ra ngoài
Sở giao dịch, không có địa điểm tập trung mà phải thông qua các công ty
chứng khoán và hệ thống mạng điện tử của họ. Và giá giao dịch là giá thỏa
thuận giữa người mua và người bán. Chứng khoán được giao dịch ở đây khác
với chứng khoán trên thị trường tập trung, nó là chứng khoán chưa được niêm
yết trên sàn, ít người biết đến và mua bán.
1.1.3.3. Căn cứ vào hàng hóa trên thị trường gồm có thị trường cổ phiếu, thị
trường trái phiếu, thị trường các công cụ chứng khoán phái sinh.
Thị trường cổ phiếu là thị trường giao dịch và mua bán các loại cổ
phiếu bao gồm cả cổ phiếu thường và cổ phiếu ưu đãi.
Thị trường trái phiếu là thị trường giao dịch và mua bán các trái phiếu
đã dược phát hành bao gồm trái phiếu chính phủ, trái phiếu đô thị, trái phiếu
công ty.
Cũng như vậy thị trường các công cụ chứng khoán phái sinh là nơi phát
hành và mua đi bán lại các chứng khoán phái sinh đã được phát hành. Đây là
thị trường cao cấp mà nó thường thấy nhiều ở những nước có thị trường
chứng khoán phát triển mạnh.
1.2. Các công cụ đầu tư trên thị trường chứng khoán.
1.2.1. Cổ phiếu
1.2.1.1. Định nghĩa cổ phiếu.
Cổ phiếu là một loại chứng khoán được phát hành dưới dạng chứng chỉ
hoặc bút toán ghi sổ, xác nhận quyền sở hữu và lợi ích hợp pháp của người
sở hữu cổ phiếu đối với tài sản hoặc vốn của một công ty cổ phần.
Nguyễn Thị Tâm QLKT46B
1.2.1.2. Các hình thức phân loại.
Trên thực tế có nhiều cách phân loại cổ phiếu khác nhau. Nhưng cách
thức được sử dụng nhiều nhất là căn cứ vào quyền lợi cổ đông thì có cổ phiếu
thường và cổ phiếu ưu đãi. Một công ty thì không thể thiếu cổ phiếu phổ
thông, đó là điều bắt buộc, còn cổ phiếu ưu đãi thì có hay không không thật
cần thiết, nó là hình thức để khuyến khích đối với nhà đầu tư. Cổ phiếu phổ
thông là cổ phiếu khá phổ biến, là lựa chọn đầu tiên của các công ty. Vì nó có
nhiều đặc tính mà không loại cổ phiếu nào có như: quyền sở hữu, quyền mua
cổ phiếu mới và quyền nhận cổ tức. Điều này có thể hiểu như sau:
Cổ phiếu phổ thông không quy định số cổ tức sẽ được nhận mà cổ tức
được chi trả dựa trên thành tích hoạt động kinh doanh của công ty. Tỷ lệ chi
trả cổ tức do Hội đồng quản trị công ty xác định nhưng lại do đại hội đồng cổ
đông quyết định. Vì thế có thể nói cổ tức là không cố định. Khi công ty làm
ăn thất bát thì các cổ đông nắm giữ cổ phiếu thường sẽ không được nhận cổ
tức và ngược lại sẽ chia cổ tức khi hoạt động mang lại lợi nhuận. Cổ đông
cũng là người được nhận lại vốn sau lúc công ty trang trải hết các khoản nợ
khi công ty phá sản.
Người nắm giữ cổ phiếu có lợi là người được ưu tiên mua cổ phiếu mới
trước nhất với mức giá ưu đãi khi công ty có phương án phát hành thêm cổ
phiếu. Tỷ lệ mua cổ phiếu mới tương ứng với tỷ lệ cổ phiếu mà cổ đông đang
nắm giữ, nếu cổ đông không sử dụng quyền này có thể chuyển nhượng trên
thị trường. Bằng cách này hay cách khác công ty đều có thể huy động thêm
được vốn. Một cái lợi nữa của cổ đông nắm giữ cổ phiếu phổ thông là cổ
đông có quyền biểu quyết, tham gia vào việc quản lý hoạt động của công ty.
Căn cứ vào tỷ lệ nắm giữ cổ phiếu mà có thể quyết định mức tham gia của cổ
đông vào việc ra các quyết định chính cho hoạt động của công ty.
Nguyễn Thị Tâm QLKT46B
Cổ đông nắm giữ cổ phiếu ưu đãi (thông thường là nắm giữ cổ phiếu
ưu đãi cổ tức) thì khác hẳn, cổ đông sẽ được hưởng cổ tức cố định dù khi
công ty có kết quả kinh doanh lỗ hay lãi. Và cổ đông này sẽ an toàn về vốn
hơn do là người được nhận lại vốn trước cổ đông thường trong trường hợp
phá sản. Đặc điểm duy nhất cần chú ý đó là cổ phiếu ưu đãi sau 3 năm có thể
chuyển đổi thành cổ phiếu phổ thông nhưng cổ phiếu phổ thông không thể trở
thành cổ phiếu ưu đãi. Nhưng có những hạn chế đối với cổ đông ưu đãi là
không được tham gia vào hoạt động quản trị của công ty và không có quyền
mua cổ phiếu mới. Thậm trí khi công ty làm ăn phát đạt đến đâu thì cổ đông
ưu đãi vẫn không có thay đổi trong việc nhận cổ tức.
1.2.1.3. Đặc điểm của cổ phiếu.
Lợi tức của cổ phiếu gồm có hai khoản là cổ tức và lãi vốn. Thường thì
cổ tức không phải cái mà nhà đầu tư mong muốn vì có nhiều lúc nhà đầu tư
mua cổ phiếu với giá cao nhưng mỗi năm nhận mức cổ tức bằng mấy phần
trăm trên thị giá cổ phiếu (10.000 đồng) thì chẳng đáng bao nhiêu. Vì thế cái
họ quan tâm là lãi vốn đó là khoản chênh lệch giữa giá bán và giá mua. Đây là
thành phần chính cấu thành lợi tức cổ phiếu. Nhưng phải chú ý rằng lãi vốn
chỉ có khi giá cổ phiếu tăng còn không thì lại có lỗ vốn. Chính vì mong muốn
này mà có hoạt động mua bán cổ phiếu. Mỗi loại cổ phiếu thì có mức lãi vốn
khác, trong từng thời kì, từng người cụ thể thì nên cân nhắc xem đầu tư vào
loại cổ phiếu nào là thích hợp. Để lựa chọn thì có mấy loại cổ phiếu sau:
 Cổ phiếu thượng hạng là cổ phiếu của công ty lớn có tiềm lực tài
chính, chi trả cổ tức đều đặn, tăng trưởng ổn định.
 Cổ phiếu tăng trưởng là cổ phiếu của ngành có tốc độ tăng nhanh hơn
tốc độ tăng của nền kinh tế.
 Cổ phiếu phòng vệ là cổ phiếu có sức chống đỡ với thị trường ngay cả
khi nền kinh tế suy thoái.
Nguyễn Thị Tâm QLKT46B
 Cổ phiếu thu nhập là cổ phiếu của công ty có mức trả cổ tức cao hơn
bình thường. Thích hợp cho những người muốn có thu nhập ổn định.
Trong mọi trường hợp đều không thể loại bỏ rủi ro được. Rủi ro luôn
tồn xung quanh chúng ta, có rủi ro từ bên ngoài (rủi ro hệ thống) và có những
rủi ro từ trong công ty (rủi ro không hệ thống), những rủi ro này sẽ ảnh hưởng
đến số lượng lợi tức cổ đông nhận được.
Khi nắm giữ cổ phiếu của một công ty cổ đông không thể biết chính
xác giá cổ phiếu của công ty này tăng hay giảm như thế nào mà tất cả chỉ là
suy đoán. Tác động của rủi ro hệ thống không kiểm soát, điều chỉnh được mà
chỉ có thể hạn chế nó. Nó có ảnh hưởng đến tất cả các công ty, mọi ngành
nghề trong nền kinh tế không loại trừ một ai như: lạm phát, như chính sách
kinh tế vĩ mô của nhà nước Còn rủi ro không hệ thống phát sinh từ hoạt
động nội tại của công ty, phụ thuộc vào năng lực quản lý, vào kế hoạch phát
triển và khả năng tiếp cận khách hàng Ảnh hưởng chỉ ở phạm vi nhỏ trong
một ngành và trong một công ty. Rủi ro này thể hiện được năng lực hoạt
động của công ty, nhà đầu tư có thể dùng các phương pháp khác nhau để đánh
giá.
Nhà đầu tư khi trở thành cổ đông của công ty họ sẽ nhận ra một điều là
việc mua cổ phiếu là không có quy định thời gian trả vốn. Họ có thể nắm giữ
cổ phiếu đó đến lúc nào tùy theo mong muốn của họ. Các cổ đông khi thực
hiện chuyển nhượng cổ phiếu thì cổ phiếu đó lại thuộc về ai đó và người này
lại giữ cổ phiếu đó mà không cần có sự trả lại vốn của công ty phát hành, đó
là hoạt động chuyển giao quyền sở hữu thông qua hoạt động mua bán trên thị
trường. Đây là một đặc điểm riêng có của hầu hết các chứng khoán. Về mặt
bản chất cổ phiếu là phần vốn góp chứ không phải phần nợ nên nó chỉ được
trả lại khi công ty phá sản, công ty vẫn hoạt động thì vốn góp đó vẫn trong
công ty. Vì thế nó có điểm khác cơ bản so với trái phiếu.
Nguyễn Thị Tâm QLKT46B
1.2.2. Trái phiếu
1.2.2.1. Định nghĩa.
Trái phiếu là một loại chứng khoán quy định nghĩa vụ của người phát
hành (người vay tiền) phải trả cho người nắm giữ chứng khoán (người cho
vay) một khoản tiền xác định, thường là cho những khoảng thời gian cụ thể và
phải hoàn trả khoản vay ban đầu khi nó đáo hạn.
1.2.2.2. Phân loại trái phiếu.
Để phân loại trái phiếu thì có nhiều cách khác nhau. Có cách phân loại
trái phiếu theo đối tượng trên cuống trái phiếu gồm có 2 loại: trái phiếu vô
danh, trái phiếu ghi danh. Trái phiếu vô danh không mang tên trái chủ trên cả
cuống phiếu và trên sổ sách của người phát hành. Hình thức phát hành là
phiếu trả lãi được đính kèm trên cuống phiếu chỉ cần mang tờ trả lãi hoặc
cuống phiếu đến ngân hàng là nhận được tiền khi đến hạn trả lãi, hoặc gốc.
Do không cố định ai là người được nhận nên cứ ai có tờ trái phiếu là người đó
sẽ được nhận tiền. Còn trái phiếu ghi danh thì lại ngược lại, tên và địa chỉ trái
chủ được ghi trên cuống phiếu và trên sổ sách của người phát hành. Hình thức
này có thể được thực hiện cho cả phần gốc và lãi hoặc chỉ một trong hai cái.
Với cách này thì chỉ có người chủ sở hữu chính trái phiếu mới được đến ngân
hàng nhận tiền.
Căn cứ vào đối tượng phát hành trái phiếu thì hiện nay chỉ có hai đối
tượng được phép phát hành trái phiếu là trái phiếu chính phủ và trái phiếu
công ty. Tên là trái phiếu chính phủ nhưng không phải chỉ do chính phủ phát
hành mà còn do chính quyền địa phương phát hành. Nhưng đều xuất phát từ
mục đích chung khi phát hành trái phiếu chính phủ là để thực hiện các mục
tiêu lớn như bù lỗ thâm hụt ngân sách, xây dựng các công trình cơ sở hạ tầng
và các công trình phúc lợi. Trái phiếu công ty do công ty phát hành vì mục
tiêu huy động vốn ngắn hạn, trung hạn và dài hạn. Nhưng đặc điểm khác lớn
Nguyễn Thị Tâm QLKT46B
nhất để phân biệt cổ phiếu và trái phiếu là người nắm giữ trái phiếu không
được tham gia vào hoạt động công ty, được thanh toán gốc trước các cổ đông
khi công ty giải thể, và để đảm bảo hơn thì có những tài sản đảm bảo cho
khoản vay.
1.2.2.3. Đặc điểm của trái phiếu.
Khác với cổ phiếu chỉ do công ty phát hành thì trái phiếu do công ty và
chính phủ phát hành. Trái phiếu về thực chất thể hiện quan hệ chủ nợ và con
nợ, người phát hành trái phiếu là con nợ còn trái chủ là chủ nợ. Vì đặc tính đó
này mà trái phiếu cần tài sản đảm bảo, không ít nhất cũng phải có ưu đãi nhất
định, những cam kết về vấn đề thanh toán nợ. Trái chủ chỉ nắm giữ phần nợ
nên không có quyền tham gia vào hoạt động của tổ chức phát hành.
Trái phiếu mang lại cho nhà đầu tư 3 khoản lợi đó là tiền lãi định kì,
chênh lệch giá khi tiến hành mua bán lại trái phiếu và khoản thứ 3 mà cổ
phiếu không có là lãi của lãi, với các khoản lãi nhận được nhà đầu tư có thể
tiến hành tái đầu tư thu lợi nhuận.
Trái phiếu có thời gian đáo hạn nhất định. Thời hạn này cho nhà đầu tư
biết chính xác thời điểm khi nào thì họ sẽ được nhận lại vốn đã cho vay. Thời
gian đáo hạn càng dài thì giá trị thực tế của trái phiếu càng nhiều biến động,
rủi ro càng lớn. Với trái phiếu thời gian thu hồi vốn là một con số hữu hạn.
Đến ngày đáo hạn nhà đầu tư sẽ được nhận cả gốc và lãi bằng chính mệnh giá
của trái phiếu họ sở hữu. Lãi suất dùng để tính toán trong trái phiếu là lãi suất
cuống phiếu hay chính là lãi suất danh nghĩa. Vì thế lãi suất thực của trái
phiếu chịu ảnh hưởng của nhiều nhân tố như lạm phát, cung cầu tín dụng,
thâm hụt ngân sách… Một sự biến động trong các yếu tố trên theo hướng tích
cực hay tiêu cực trong thời gian nhà đầu tư nắm giữ trái phiếu đều ảnh hưởng
đến giá trị của các trái phiếu khi đến thời gian đáo hạn.
Nguyễn Thị Tâm QLKT46B
1.2.3. Chứng chỉ quỹ đầu tư.
1.2.3.1. Định nghĩa.
Một quỹ đầu tư được hình thành từ vốn góp của nhiều nhà đầu tư. Mỗi
nhà đầu tư sẽ thực hiện việc góp vốn vào các quỹ đầu tư thông qua việc mua
chứng chỉ do quỹ đó phát hành. Vì vậy có thể hiểu, chứng chỉ quỹ đầu tư là
một loại chứng khoán xác nhận quyền sở hữu của nhà đầu tư đối với một
phần vốn góp trong các quỹ đầu tư đại chúng.
1.2.3.2. Phân loại.
Theo hình thái vận động của vốn có chứng chỉ quỹ của quỹ đóng và
chứng chỉ quỹ mở. Như tên gọi chứng chỉ quỹ đóng là chứng chỉ của quỹ chỉ
phát hành lần đầu ra công chúng và không mua lại chứng chỉ quỹ khi nhà đầu
tư có nhu cầu bán. Thường thì các chứng chỉ được niêm yết trên thị trường
chứng khoán. Và nhà đầu tư sẽ thực hiện mua bán, giao dịch trên thị trường.
Dòng tiền lúc này sẽ chảy qua lại giữa các nhà đầu tư. Tổng vốn huy động của
quỹ không thay đổi theo thời gian.
Ngược lại, chứng chỉ quỹ của quỹ mở là việc quỹ liên tục phát hành
chứng chỉ ra công chúng, sẽ tiến hành mua lại chứng chỉ khi nhà đầu tư có
nhu cầu với giá tại thời điểm giao dịch. Hoạt động của chứng chỉ này không
diễn ra trên thị trường mà diễn ra trực tiếp giữa nhà đầu tư và đại lý ủy quyền
của quỹ. Việc mua bán lại làm cho tổng vốn huy động của quỹ liên tục thay
đổi.
1.2.3.3. Đặc điểm của chứng chỉ quỹ đầu tư:
Nhà đầu tư mua chứng chỉ quỹ chỉ với mục đích tiền của họ sẽ được
đầu tư một cách có lợi nhất mà không quan tâm xem tiền của họ đang ở đâu.
Có thể nói người sở hữu chứng chỉ quỹ đầu tư không trực tiếp tham gia vào
hoạt động đầu tư của quỹ. Họ chỉ nhận lợi từ kết quả đầu tư của quỹ theo số
lượng chứng chỉ quỹ mà họ nắm giữ. Chứng chỉ quỹ được mua bán tự do trên
Nguyễn Thị Tâm QLKT46B
thị trường. Nó dễ dàng chuyển đổi thành tiền, hay tính thành khoản của chứng
chỉ quỹ cao.
Những người có tiền nhàn rỗi thường có mong muốn đầu tư kinh
doanh, nhưng với lượng kiến thức về lĩnh vực họ muốn đầu tư không cao.
Hoặc do họ bị hạn chế về vốn vì thế kèm theo đó là tỷ trọng phí giao dịch
trong tổng vốn đầu tư sẽ cao. Họ sẽ không thu được nhiều lợi trong việc đầu
tư và gặp nhiều rủi ro nếu họ bỏ hết vốn vào trong cùng “một giỏ” hàng hóa.
Chính vì thế đây là lựa chọn có lợi nhất cho các nhà đầu tư nhỏ lẻ. Với một số
vốn khiêm tốn nhà đầu tư vẫn có thể sở hữu một danh mục đầu tư đa dạng và
ngăn chặn được những rủi ro có thể tránh được: rủi ro về sự thiếu thông tin
đầu tư, rủi ro chi phí…
1.2.4. Chứng khoán có thể chuyển đổi.
1.2.4.1. Định nghĩa.
Chứng khoán có thể chuyển đổi là chứng khoán cho phép người nắm
giữ nó, tùy theo lựa chọn và trong những điều kiện nhất định, có thể chuyển
đổi nó lấy một chứng khoán khác.
Thông thường có loại trái phiếu chuyển đổi thành cổ phiếu thường và
cổ phiếu ưu đãi có thể chuyển đổi thành cổ phiếu thường.
1.2.4.2. Đặc điểm.
Chứng khoán có thể chuyển đổi là biện pháp được thực hiện để tăng
vốn tự có khi mà tổ chức phát hành chưa có đủ điều kiện để phát hành cổ
phiếu thường hoặc trong trường hợp muốn tăng sức hấp dẫn cho đợt phát
hành của tổ chức. Loại chứng khoán này hấp dẫn vì nó mang lợi ích cho cả
nhà phát hành và nhà đầu tư. Cụ thể:
Chứng khoán có thể chuyển đổi có lợi cho nhà phát hành trong việc
giảm các khoản phải trả cố định và tăng thêm cổ đông cho công ty. Trái phiếu
Nguyễn Thị Tâm QLKT46B

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét