Thứ Ba, 25 tháng 2, 2014

Giải pháp nâng cao chất lượng cho vay đối với lĩnh vựcđầu tưxây dựng cơ bản tại ngân hàng Đầu Tư và Phát triển chi nhánh Quảng Trị

Trường Kinh Tế Quốc Dân 5
Đề tài thực tập
* Sản phẩm của đầu tư XDCB là những công trình như nhà máy, công trình
công cộng, nhà ở, cầu cống, sân bay, cảng biển thường gắn liền với đất đai, kết
tinh từ các thành quả khoa học - công nghệ. Đó là kết quả của nhiều ngành,
nhiều tổ chức kinh tế xã hội như chủ đầu tư, doanh nghiệp xây dựng, các cơ quan
tư vấn thiết kế, các công ty cung ứng vật tư thiết bị, các tổ chức dịch vụ ngân
hàng, tài chính, các cơ quan quản lí của Nhà nước. Điều đó cho ta thấy muốn
thành lập một dự án thành công tốt phải có sự phối hợp liên ngành, liên cơ quan
và luôn nằm dưới sự quản lí của Nhà nước.
* Các công trình đầu tư xây dựng thường có vốn lớn. Vì vậy, chiến lược đầu
tư xây dựng luôn là trọng điểm của Nhà nước. Chỉ riêng phần xây lắp những
công trình bình thường, nhỏ cũng vài trăm triệu, lớn tới hàng chục tỷ đồng.
* Đầu tư xây dựng luôn gắn liền với sự phát triển của ngành kinh tế và mức
sống của nhân dân. Khi kinh tế xã hội phát triển kéo theo sản xuất xây dựng phát
triển đặc bịêt trong lĩnh vực xây dựng công nghiệp và xây dựng dân dụng.
* Trong sản xuất xây dựng, người đầu tư và người sử dụng sản phẩm không
phải là người thực hiện xây dựng. Trong đó luôn tồn tại những hợp đồng A - B
và luôn cần hoạt động đầu tư giám sát.
* Sản phẩm xây dựng là những công trình gắn liền với địa điểm nhất định
(bất động sản) do đó xây dựng chịu tác động của nhiều yếu tố địa phương. Địa
điểm sản xuất luôn thay đổi, lực lượng sản xuất luôn phải di động, cơ cấu tổ
chức xây lắp luôn phải thay đổi cho phù hợp với công trình làm tăng những chi
phí gián tiếp.
* Đầu tư XDCB mang tính xã hội và thay đổi theo thời gian, nó chịu ảnh
hưởng của phong tục tập quán, trình độ văn hóa và quan điểm của người sử
dụng.
SV: Nguyễn Thị Tùng Giang Lớp:
TCDN 46QN
Trường Kinh Tế Quốc Dân 6
Đề tài thực tập
* Thời gian xây dựng một công trình tương đối dài và ở ngoài trời nên chịu
tác động của thời tiết, thị trường nên quá trình sản xuất khá rõ rệt. Việc tổ chức
thực hiện xây dựng đòi hỏi phải luôn năng động, chính xác và nhạy cảm, đôi khi
còn có một phần may rủi.
* Sản xuất xây dựng cần nhiều lao động sống, mà lao động lại là nguồn tài
nguyên quý hiếm nên bài toán sử dụng lao động luôn luôn đặt ra với mọi phương
án thi công.
* Công nghệ xây dựng biến đổi chậm, thị trường cạnh tranh khá tự do nên
rất gay gắt.
1.1.3 Vai trò của lĩnh vực đầu tư xây dựng cơ bản đối với nền kinh tế
Thứ nhất, đầu tư XDCB đã góp phần phát triển nhanh kết cấu hạ tầng kinh
tế - xã hội. Nguồn vốn đầu tư của Nhà nước trong thời gian qua đã tập trung đầu
tư xây dựng kết cấu hạ tầng kỹ thuật và kinh tế - xã hội ở các vùng, ngành trong
cả nước; quan tâm đầu tư kết cấu hạ tầng nông thôn và nông nghiệp, các vùng
sâu, vùng xa, vùng có nhiều khó khăn. Kết cấu hạ tầng kỹ thuật và kinh tế - xã
hội ngày càng được phát triển, hoàn thiện, làm thay đổi diện mạo của nhiều địa
phương trong cả nước, một số đô thị mới ra đời; nhiều khu công nghiệp được
hình thành; nhiều sân bay, bến cảng được hiện đại hóa; giao thông đường bộ
(quốc lộ, tỉnh lộ) phát triển mạnh; giao thông nông thôn được cải thiện; vận tải
đường sắt được nâng cấp; bệnh viện và trạm y tế đạt tiêu chuẩn cao hơn; các
trường đại học, cao đẳng, trung học dạy nghề và các trường trung học phổ thông
được xây dựng khang trang hơn; các trường trung học cơ sở, tiểu học ở các vùng,
kể cả các vùng khó khăn đang nhanh chóng được kiên cố hóa.
Thứ hai, đầu tư XDCB góp phần phát triển kinh tế. Tốc độ và quy mô đầu
tư XDCB tăng đã góp phần quan trọng vào tăng tốc độ GDP hàng năm, tăng
SV: Nguyễn Thị Tùng Giang Lớp:
TCDN 46QN
Trường Kinh Tế Quốc Dân 7
Đề tài thực tập
cường tiềm lực nền kinh tế, cải thiện và nâng cao đời sống vật chất và tinh thần
của nhân dân.
Thứ ba, đầu tư XDCB đã góp phần quan trọng trong việc chuyển dịch cơ
cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, tăng đáng kể năng lực sản
xuất mới. Trong những năm qua, công tác XDCB đã tập trung vào những mục
tiêu quan trọng về phát triển kinh tế - xã hội. Các nguồn vốn đầu tư từ ngân sách
Nhà nước chủ yếu đầu tư vào các lĩnh vực giao thông, thủy lợi, thuỷ điện, bưu
chính, viễn thông, nông nghiệp, nông thôn, khoa học và giáo dục - đào tạo, góp
phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tăng dần tỷ trọng ngành công
nghiệp, xây dựng; tăng dần và cơ cấu lại ngành dịch vụ; giảm dần tỷ trọng ngành
nông, lâm, thủy sản. Trong từng ngành cũng tiếp tục có sự chuyển dịch về cơ
cấu. Nhiều dự án, công trình hoàn thành đi vào sử dụng đã tăng thêm năng lực
sản xuất cho nền kinh tế. Dầu khí, điện lực, bưu chính viễn thông đã trở thành
những ngành công nghiệp, dịch vụ mũi nhọn của đất nước.
Thứ tư, lĩnh vực xây dựng đã tạo công ăn việc làm, thu nhập cho người lao
động. Một trong những mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội của Đảng và Nhà
nước ta là làm sao giảm thiểu tối đa số người thất nghiệp. Doanh nghiệp trong
lĩnh vực XDCB đã phần nào tạo điều kiện cho người trong độ tuổi lao động có
công ăn việc làm ổn định. Nếu các chuyên gia xây dựng như tư vấn, thiết kế,
giám sát cần có trình độ cao thì tổ thi công cũng cần nhiều công nhân “chay”,
một nguồn lao động có khá nhiều trong xã hội. Điều này đã góp phần giải quyết
tình trạng thất nghiệp, giảm bớt chênh lệch về thu nhập giữa các bộ phận dân cư,
đảm bảo an ninh trật tư trong vùng miền.
1.2 Hoạt động cho vay của ngân hàng đối với lĩnh vực đầu tư xây dựng cơ bản
1.2.1 Khái niệm và nguyên tắc cho vay của ngân hàng
1.2.1.1 Khái niệm
SV: Nguyễn Thị Tùng Giang Lớp:
TCDN 46QN
Trường Kinh Tế Quốc Dân 8
Đề tài thực tập
Theo quyết định số 1627/2001/QĐ-NHNN ngày 31/12/2001 của Thống đốc
NHNN Việt Nam về việc ban hành quy chế cho vay của tổ chức tín dụng đối với
khách hàng, hoạt động cho vay được hiểu:
“Cho vay là một hình thức cấp tín dụng, theo đó NHTM giao cho khách hàng sử
dụng một khoản tiền để sử dụng vào mục đích nhất định theo thỏa thuận với
nguyên tắc hoàn trả cả gốc lẫn lãi ”.
1.2.1.2 Các nguyên tắc cho vay
Cho vay là hoạt động đem lại nguồn thu nhập chủ yếu cho ngân hàng nhưng
đồng thời nó cũng mang lại nhiều rủi ro nhất. Vì vậy, để đảm bảo tính an toàn và
khả năng sinh lời đòi hỏi các ngân hàng phải bám sát các quy định của ngân
hàng Nhà nước một cách chặt chẽ. Theo quyết định số 1627/2001/QĐ-NHNN có
hai nguyên tắc cho vay:
Thứ nhất: Sử dụng vốn vay đúng mục đích đã thỏa thuận trong hợp đồng tín
dụng.
Nguyên tắc này đòi hỏi khách hàng phải cam kết sử vốn vay đúng mục đích
đã ghi trong hợp đồng tín dụng, không trái với các quy định của pháp luật và các
quy định của ngân hàng cấp trên.
Thứ hai, hoàn trả nợ gốc và lãi vốn vay đúng thời hạn đã thỏa thuận trong
hợp đồng tín dụng.
Đây là điều kiện quan trọng, đảm bảo sự tồn tại và phát triển của ngân hàng.
Để đáp ứng cho vay, ngân hàng phải huy động tiền gửi từ các tổ chức kinh tế và
dân cư với một lãi suất nhất định và ngân hàng phải có trách nhiệm hoàn trả cả
gốc và lãi đã cam kết. Do đó, ngân hàng luôn yêu cầu người nhận tín dụng phải
thực hiện cam kết này. Vì lí do nào đó, khách hàng không hoàn trả hay hoàn trả
chậm gốc hoặc lãi thì ngoài việc khách hàng chịu lãi phạt khách hàng còn khó
khăn trong lần vay sau.
SV: Nguyễn Thị Tùng Giang Lớp:
TCDN 46QN
Trường Kinh Tế Quốc Dân 9
Đề tài thực tập
1.2.2 Vai trò nguốn vốn của ngân hàng đối với lĩnh vực đầu tư XDCB
Nguồn vốn ngân hàng đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế. Nó là “bà
đỡ” của các doanh nghiệp nói chung và doanh nghiệp XDCB nói riêng. Như ta
đã biết, đặc điểm của ngành xây dựng là sau khi nghiệm thu công trình nhà đầu
tư mới quyết toán. Vậy trong khoảng thời gian chờ quyết toán đó, các nhà thầu
sẽ xoay xở vốn ở đâu khi đại đa số các doanh nghiệp XDCB là các doanh nghiệp
vừa và nhỏ với vốn ít, công nghệ thiếu thốn. Điều tất yếu là các doanh nghiệp đó
lại gõ cửa các ngân hàng để vay vốn.
Ngân hàng cho các doanh nghiệp xây dựng vay không chỉ để mua nguyên
vật liệu, trả lương công nhân mà còn đầu tư mua sắm máy móc, trang thiết bị
phục vụ cho quá trình thi công nhanh, hiệu quả, nâng cao năng suất lao động,
tăng lợi nhuận, tạo uy tín cho doanh nghiệp. Nhờ có nguồn vốn ngân hàng mà
các doanh nghiệp XDCB đã nắm bắt thời cơ trong các khâu lập dự án, đấu thầu,
thi công công trình một cách nhanh chóng.
Giả sử rằng, lĩnh vực XDCB không có mặt nguồn vốn của ngân hàng thì các
công trình có được hoàn thành hay không và hiệu quả của nó sẽ như thế nào?
Hầu hết các công trình xây dựng đều cần đến nguồn vốn ngân hàng, không có
một công trình nào xây dựng mà nhà đầu tư không vay vốn ngân hàng. Vậy vốn
ngân hàng là chiếc cầu nối quan trọng giữa doanh nghiệp với thị trường, tạo điều
kiện cho sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp XDCB. Đến nay, không một
doanh nghiệp nào phủ nhận vai trò quan trọng của vốn ngân hàng.
1.2.3 Phân loại cho vay đối với lĩnh vực đầu tư XDCB
Phân loaị cho vay có ý nghĩa quan trọng đối với ngân hàng. Liên quan mật
thiết đến tính an toàn và sinh lời của tín dụng cũng như khả năng hoàn trả của
khách hàng. Có nhiều tiêu chí để phân loại cho vay song đối với lĩnh vực đầu tư
XDCB chủ yếu có một số cách phân loại sau:
SV: Nguyễn Thị Tùng Giang Lớp:
TCDN 46QN
Trường Kinh Tế Quốc Dân 10
Đề tài thực tập
Thứ nhất, căn cứ vào thời hạn cho vay
Thời hạn cho vay là khoảng thời gian được tính từ khi khách hàng bắt đầu
nhận đồng vốn đầu tiên cho đến thời điểm trả hết nợ gốc và lãi vốn vay đã được
thoả thuận trong hợp đồng tín dụng giữa tổ chức tín dụng và khách hàng. Theo
quyết địng số 1627/2001/QĐ-NHNN về việc ban hành quy chế cho vay của tổ
chức tín dụng đối với khách hàng, thời hạn cho vay được phân thành:
+ Tín dụng ngắn hạn: Là khoản vay có thời hạn cho vay đến 12 tháng.
+ Tín dụng trung hạn: Là khoản vay có thời hạn cho vay từ trên 12 tháng
đến 60 tháng.
+ Tín dụng dài hạn: Là khoản vay có thời hạn cho vay từ 60 tháng trở lên.
Tổ chức tín dụng và khách hàng căn cứ vào thời gian xây dựng, thời hạn thu
hồi vốn của dự án đầu tư, khả năng trả nợ của khách hàng để thoả thuận thời hạn
cho vay.
Các khoản vay không xác định trước thời hạn như vay luân chuyển, khách
hàng thoả thuận với ngân hàng về việc ngân hàng được quyền trích tiền trên tài
khoản tiền gửi thanh toán để thu nợ khi tài khoản có tiền. Việc xác định trước
thời hạn thu nợ trong trường hợp này có thể gây khó khăn cho khách hàng trong
việc tiêu thụ sản phẩm.
Trong XDCB, các công trình cho vay chủ yếu là công trình của Nhà nước vì
thế nó được cấp vốn hàng năm theo dự toán của ngân sách Nhà nước. Có thể
năm nay Nhà nước bố trí được vốn cho công trình này nhưng năm sau chưa chắc
phân bổ được. Vì thế cho vay ngắn hạn là một trong những giải pháp nhằm tránh
rủi ro và đó là hình thức cho vay chủ yếu ở ngân hàng.
Thứ hai, cho vay theo tài sản đảm bảo
Cho vay là hoạt động mang lại lợi nhuận lớn nhất song nó chứa đựng nhiều
rủi ro nhất vì thế trong nhiều trường hợp ngân hàng yêu cầu khách hàng phải có
SV: Nguyễn Thị Tùng Giang Lớp:
TCDN 46QN
Trường Kinh Tế Quốc Dân 11
Đề tài thực tập
tài sản đảm bảo khi nhận tín dụng. Lí do vì rủi ro luôn ẩn chứa trong quá trình
xây dựng. Doanh nghiệp có thể mất khả năng trả nợ cho ngân hàng vì các công
trình chưa được thanh toán vốn hay thanh toán chậm. Những biến cố không
mong đợi đó có thể gây ra cho ngân hàng những tổn thất lớn. Chính vì vậy, trừ
những khách hàng có uy tín cao, còn lại phần lớn khách hàng phải có tài sản đảm
bảo khi nhận tín dụng của ngân hàng. Đặt yêu cầu phải có tài sản đảm bảo, ngân
hàng muốn có nguồn trả nợ thứ hai khi nguồn thứ nhất là thu nhập từ hoạt động
cho vay không đảm bảo trả nợ.
Căn cứ vào tài sản đảm bảo có hai loại cho vay sau:
* Cho vay có tài sản đảm bảo: là loại tín dụng mà khi cho vay ngân hàng đòi
hỏi khách hàng phải có tài sản đảm bảo như cầm cố, thế chấp hoặc có sự bảo
lãnh của bên thứ ba.
* Cho vay không có tài sản đản bảo: là loại cho vay không có tài sản cầm cố,
thế chấp hoặc không có sự tham gia bảo lãnh của bên thứ ba mà dựa trên lòng
tin, uy tín của khách hàng để cho vay. Theo cách này thương áp dụng đối với
khách hàng truyền thống, có uy tín, có tình hình tài chính vững mạnh.
Thứ ba, căn cứ vào mục đích vay vốn
Mỗi khoản vay của khách hàng đều có một mục đích nhất định, ảnh hưởng
đến quyết định cho vay của ngân hàng như thời gian, số tiền cho vay, thời hạn trả
nợ Theo căn cứ trên chia thành các loại:
* Cho vay tiêu dùng: Ngân hàng cho khách hàng vay tiêu dùng nhằm đáp ứng
nhu cầu mua sắm các hàng hoá lâu bền như nhà cửa, xe, đồ gỗ sang trọng, nhu
cầu du lịch đối với lượng khách hàng rộng lớn. Nguồn trả nợ cho ngân hàng là
nguồn thu nhập khá ổn định của khách hàng.
* Cho vay kinh doanh, sản xuất: Gồm cho vay theo lĩnh vực thương mại - dịch
vụ; lĩnh vực xây dựng, lĩnh vực công - nông nghiệp.
SV: Nguyễn Thị Tùng Giang Lớp:
TCDN 46QN
Trường Kinh Tế Quốc Dân 12
Đề tài thực tập
Thứ tư, căn cứ vào phương thức cho vay
Đây là cách phân loại phổ biến của các NHTM. Theo cách thức này các
doanh nghiệp trong lĩnh vực XDCB thường có một số cách vay sau:
* Cho vay từng lần: là hình thức cho vay tương đối phổ biến của ngân hàng đối
với khách hàng không có nhu cầu vay thường xuyên không có điều kiện để được
cấp thấu chi. Các công trình khi nào xác định được nguồn vốn thì chủ đầu tư mới
vay vốn ngân hàng để thi công. Mỗi lần vay, khách hàng phải làm đơn và trình
ngân hàng phương án sử dụng vốn vay. Ngân hàng sẽ phân tích khách hàng và kí
hợp đồng cho vay, xác định quy mô cho vay, thời hạn giải ngân và thời hạn trả
nợ, lãi suất và yêu cầu đảm bảo nếu cần. Mỗi món vay được tách thành mỗi hồ
sơ (khế ước nhận nợ) khác nhau. Theo từng kì hạn nợ trong hợp đồng, ngân hàng
sẽ thu gốc và lãi. Trong quá trình khách hàng sử dụng tiền vay, ngân hàng sẽ
kiểm soát mục đích và hiệu quả. Nếu thấy có vi phạm hợp đồng, ngân hàng sẽ
thu nợ trước hạn hoặc chuyển nợ quá hạn. Lãi suất có thể cố định hoặc thả nỗi
theo thời điểm tính lãi.
* Cho vay theo hạn mức: Đây là nghiệp vụ tín dụng theo đó ngân hàng thoả
thuận với khách hàng hạn mức tín dụng. Hạn mức tín dụng có thể tính cho cả kì
hoặc cuối kì. Đó là số dư tối đa tại thời điểm tính. Hạn mức tín dụng được cấp
trên tài sản, cơ sở kế hoạch xây dựng, nhu cầu vốn và nhu cầu vay vốn của khách
hàng. Trong kì khách hàng có thể vay trả nhiều lần, song dư nợ không vượt quá
hạn mức tín dụng. Một số trường hợp ngân hàng quy định hạn mức cuối kì. Dư
nợ trong kì có thể lớn hơn hạn mức. Tuy nhiên, đến cuối kì khách hàng phải trả
nợ để giảm dư nợ sao cho dư nợ cuối kì không được vượt quá hạn mức. Phương
án này áp dụng đối với khách hàng vay thường xuyên, khi khách hàng có thu
nhập, ngân hàng sẽ thu nợ do đó tạo chủ động trong quản lí ngân quỹ cho khách
SV: Nguyễn Thị Tùng Giang Lớp:
TCDN 46QN
Trường Kinh Tế Quốc Dân 13
Đề tài thực tập
hàng. Ngân hàng chỉ có thể phát hiện vấn đề khi khách hàng nộp báo cáo tài
chính hoặc dư nợ lâu không giảm sút.
* Cho vay theo dự án đầu tư: Là hình thức ngân hàng cho khách hàng vay để
thực hiện dự án đầu tư phát triển. Mỗi doanh nghiệp có tình hình tài chính lành
mạnh là cơ sở quan trọng để ngân hàng quyết định cho vay nhằm thực hiện dự
án. Mức cho vay được xác định:
Mức
cho vay
=
Tổng nhu cầu
vốn dự án
-
Vốn tự có của chủ dự
án tham gia vào dự án
-
Vốn khác
(nếu có)
* Cho vay theo hạn mức thấu chi: Thấu chi là nghiệp vụ cho vay qua đó ngân
hàng cho phép các nhà doanh nghiệp xây dựng được chi trội (vượt mức) trên số
dư tiền gửi thanh toán của mình đến một giới hạn nhất định và trong khoản thời
gian xác định. Giới hạn này được gọi là mức thấu chi. Các khoản chi vượt quá
hạn mức thấu chi sẽ chịu lãi phạt và bị đình chỉ sử dụng hình thức này. Thấu chi
trên cơ sở thu - chi của khách hàng không phù hợp về thời gian và quy mô. Thấu
chi là hình thức tín dụng ngắn, linh hoạt, phần lớn không có tài sản đảm bảo,
thường sử dụng đối với khách hàng có độ tin cậy cao, thu nhập đều đặn và kì thu
nhập ngắn.
* Cho vay theo hạn mức tín dụng dự phòng: là hình thức cho vay mà ngân
hàng cam kết đảm bảo sẵn sàng cho khách hàng vay vốn trong phạm vi hạn mức
tín dụng nhất định. Ngân hàng và khách hàng thoả thuận thời hạn hiệu lực của
hạn mức tín dụng dự phòng và mức phí trả cho hạn mức tín dụng dự phòng.
1.2.4 Quy trình cho vay đối với lĩnh vực đầu tư XDCB
Quy trình cho vay được bắt đầu khi cán bộ tín dụng bộ phận quan hệ trực
tiếp tiếp nhận hồ sơ khách hàng và kết thúc khi tất toán thanh lí hợp đồng tín
dụng, được tiến hành theo ba bước:
- Thẩm định trước khi cho vay.
SV: Nguyễn Thị Tùng Giang Lớp:
TCDN 46QN
Yêu cầu bổ sung thêm thông tin
Chuyển sang quy trình thẩm định tín dụng
Hỗ trợ khách hàng hoàn thiện hồ sơ nếu cần thiết
Cung cấp mẫu hồ sơ
Phỏng vấn
Từ chối Đánh giá sơ bộ
Hoãn/yêu cầu thêm thông tin
Đạt yêu cầu
Không đạt
Không đạt
Kiểm tra lịch sử quan hệ tín dụng
Đạt yêu cầu
Kiểm tra hồ sơ
Chấp nhận hồ sơ
Đạt yêu cầu
Trường Kinh Tế Quốc Dân 14
Đề tài thực tập
- Kiểm tra, giám sát trước khi cho vay.
- Kiểm tra, giám sát, thu hồi nợ sau khi cho vay.
Sơ đồ dưới đây tóm tắt quy trình tiếp nhận vốn vay, quy trình đánh giá và
thẩm định:
Sơ đồ 1.1: Quy trình tiếp nhận vốn vay, đánh giá và thẩm định
SV: Nguyễn Thị Tùng Giang Lớp:
TCDN 46QN

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét