Thứ Ba, 25 tháng 2, 2014

LÝ LUẬN CHUNG VỀ BẢO ĐẢM TIỀN VAY TRONG HOẠT ĐỘNG KINH DOANH CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI

Ngoài vốn pháp định (vốn điều lệ), NHTM còn có các quỹ dự trữ buộc
phải trích lập trong quá trình tồn tại và hoạt động của ngân hàng: Quỹ phát
triển kỹ thuật, quỹ khấu hao tài sản cố định, quỹ bảo toàn vốn, quỹ phúc lợi
Toàn bộ các nguồn vốn này đ ợc gọi vốn tự có của ngân hàng, nhng nó lại
vô cùng quan trọng vì qua đó mọi ngời có thể thấy đợc thực lực, quy mô của
ngân hàng và vì nó lại là cơ sở để thu hút các nguồn vốn khác, là vốn khởi
đầu tạo uy tín của ngân hàng đối với khách hàng.
Theo đà phát triển, vốn này sẽ đợc gia tăng về số lợng tuyệt đối, song nó
vẫn luôn luôn chiếm tỷ trọng nhỏ trong kết cấu nguồn vốn. Vốn tự có chỉ là
điểm xuất phát để tổ chức hoạt động ngân hàng. Ngày nay các nghiệp vụ
kinh doanh ngân hàng dựa trên cơ sở vốn vay mợn (nghiệp vụ kỹ thác, vay
các ngân hàng và các tổ chức tài chính khác, phát hành các giấy tờ có giá )
tỷ lệ giữa vốn vay mợn và vốn tự có có thể từ 1/10 đến 1/100. Vốn tự có là
điều kiện pháp lý cơ bản, đồng thời là yếu tố tài chính quan trọng nhất trong
việc đảm bảo các khoản nợ đối với khách hàng. Chính vì vậy quy mô vốn là
yếu tố quyết định quy mô huy động vốn và quy mô tài sản có. Vốn tự có
càng lớn, sức chịu đựng của ngân hàng càng mạnh khi mà tình hình kinh tế
và tình hình hoạt động ngân hàng trải qua giai đoạn khó khăn. Vốn tự có
càng lớn, khả năng tạo lợi nhuận càng lớn vì có thể đa dạng hoá các nghiệp
vụ ngân hàng có nhiều cơ hội làm ra tiền hơn. Vốn tự có có 3 chức năng:
Chức năng bảo vệ (sự bảo đảm thanh toán cho ngời ký thác khi vỡ nợ, góp
phần duy trì khả năng trả nợ, bằng cách cung cấp một khoản tài sản dự trữ để
ngân hàng khỏi bị đe dọa bởi sự thua lỗ để có thể tiếp tục hoạt động); chức
năng hoạt động (xây dựng trụ sở, trang thiết bị phục vụ cho hoạt động kinh
doanh của ngân hàng); chức năng điều chỉnh (thoả mãn các cơ quan quản lý
ngân hàng: xem xét cấp giấy phép hoạt động, thiết lập các chi nhánh, giới
hạn tín dụng đầu t và mua sắm tài sản của ngân hàng).
- Nghiệp vụ ký thác: Do khách hàng gửi vào và để lại trong tài khoản của
họ tại ngân hàng; theo 2 mục đích: hởng các lợi ích của các phơng tiện mà
ngân hàng có thể cung cấp cho họ, thứ hai là lấy lãi suất nh các số tiền gửi
vào sổ tiết kiệm hay vào các tài khoản định kỳ (trong trờng hợp này thì khách
5
hàng không còn quyền sử dụng các dịch vụ của ngân hàng nh dùng séc để
thanh toán chẳng hạn).
Ký thác của ngân hàng chủ yếu từ 2 nguồn: Từ doanh nhân và từ dân c.
Luật pháp quy định rõ trách nhiệm và quyền lợi của ngân hàng khi nhận ký
thác và chính nghiệp vụ ký thác còn cung cấp một tiêu chuẩn để phân biệt
giữa ngân hàng và các tổ chức tài chính trung gian khác. Về phơng diện pháp
lý, NHTM trở thành ngời bảo quản các số tiền gửi dới bất kỳ hình thức nào
và đợc quyền sử dụng các số tiền đó trong các nhu cầu hoạt động chuyên
môn của mình, nhng đồng thời cũng có trách nhiệm hoàn lại vốn trong các
điều kiện đã đợc quy định.
Các khoản tiền ký thác đợc phân loại thành: Tiền gửi có kỳ hạn và tiết
kiệm, tiền gửi không kỳ hạn.
- Nghiệp vụ đi vay: Sau khi đã sử dụng hết vốn nhng vẫn cha đáp ứng nhu
cầu vay vốn của khách hàng hoặc phải đáp ứng nhu cầu thanh toán và chi của
khách hàng, các NHTM có thể vay ở NHTW, ở các NHTM khác, vay ở thị tr-
ờng tiền tệ, vay các tổ chức nớc ngoài Vốn đi vay chỉ chiếm một tỷ trọng
có thể chấp nhận đợc trong kết cấu nguồn vốn, nhng nó rất cần thiết và có vị
trí quan trọng để bảo đảm cho ngân hàng hoạt động kinh doanh một cách
bình thờng.
* Nghiệp vụ có: Huy động đợc vốn rồi thì NHTM phải tìm cách để hiệu
quả hoá những tài sản này. Hầu nh tất cả các khoản mục bên tài sản nợ của
ngân hàng đều là vốn vay, nghĩa là ngân hàng phải trả lãi suất cho nó đến
từng giờ. Do đó để khỏi bị thiệt hại, ngân hàng luôn luôn phải cho vay hoặc
đầu t ngay số tài sản ấy vào những dịch vụ sinh lời, có thu đợc lãi ngân hàng
sẽ trả lãi cho vốn đã vay, thanh toán cho các chi phí trong hoạt động, phần
còn lại sẽ là lợi nhuận của ngân hàng.
Tài sản có cho biết những khoản nợ mà thị trờng nợ ngân hàng hoặc là
những khoản mà ngân hàng cho thị trờng vay. Ngân hàng là chủ nợ và các
đối tợng vay tiền của nó là con nợ. Ngân hàng có rất nhiều cách để đầu t tiền
6
của nó. Sự khác nhau giữa các loại đầu t này hình thành nên sự khác nhau
trong tài sản có của NHTM và thờng đợc quy về các nhóm sau:
- Dự trữ tiền mặt bao gồm tiền mặt tại kho của ngân hàng và tiền mặt ký
gửi tại NHTW.
- Đầu t vào chứng khoán (trái phiếu, cổ phiếu, hối phiếu)
- Cho vay
- Đầu t vào các loại tài sản (nh bất động sản, cơ sở hạ tầng trang thiết bị
)
* Nghiệp vụ môi giới trung gian: Nền kinh tế càng phát triển, các dịch vụ
ngân hàng theo đó cũng phát triển theo để đáp ứng yêu cầu ngày càng đa
dạng của công chúng. Thực hiện nghiệp vụ trung gian mang tính dịch vụ sẽ
đem lại cho các ngân hàng những chứng khoản thu nhập khá quan trọng. Các
dịch vụ ngân hàng sẽ giúp ngân hàng phát triển toàn diện. Hiện nay, để cạnh
tranh với nhau các NHTM không ngừng tìm tòi, nghiên cứu, cung cấp tiện
nghi cho khách hàng, tạo thêm những hình thức dịch vụ mới, tạo sự phong
phú đa dạng hoạt động kinh doanh.Dịch vụ ngân hàng càng phát triển thể
hiện xã hội càng văn minh, nền công nghiệp càng phát triển.
Nghiệp vụ trung gian gồm rất nhiều loại dịch vụ ngân hàng khác nhau,
chủ yếu là các công cụ thanh toán không dùng tiền mặt nh sau:
- Dịch vụ chuyển khoản từ tài khoản này sang tài khoản khác cùng ở một
ngân hàng hay ở 2 ngân hàng khác nhau, thông qua các công cụ nh séc, lệnh
chi, thẻ chi trả.
- Dịch vụ thu hộ và chi hộ cho khách hàng có tài khoản tiền gửi thanh
toán tại ngân hàng. Việc chi hộ ngân hàng chỉ tiến hành khi có lệnh của chủ
tài khoản.
- Dịch vụ trả lơng cho các doanh nghiệp có nhu cầu. Đến tháng doanh
nghiệp chỉ cần gửi bảng lơng qua ngân hàng, theo đó ngân hàng sẽ ghi nợ
vào tài khoản doanh nghiệp đó và tiến hành chi lơng cho những ngời có tên
trong danh sách tiền lơng.
7
- Dịch vụ chuyển tiền tự địa phơng này sang địa phơng khác.
- Dịch vụ khấu trừ tự động cũng là dịch vụ với khách hàng là cá nhân.
Theo đó nếu khách hàng cho phép, ngân hàng sẽ tự động ghi nợ tài khoản
của khách hàng để thanh toán các hoá đơn đòi tiền do các đơn vị dịch vụ gửi
đến nh: trả tiền điện, nớc, điện thoại, thuê nhà Đây là những khoản chi th -
ờng xuyên trong tháng, nếu không có dịch vụ này khách hàng sẽ tốn nhiều
thời gian và phiền toái khi đi thanh toán các khoản này.
1.1.3 Hoạt động cho vay của ngân hàng th ơng mại:
Là hoạt động kinh doanh chủ chốt của NHTM để tạo ra lợi nhuận. Chỉ
có lãi suất thu đợc từ cho vay mới bù nổi chi phí tiền gửi, chi phí dự trữ, chi
phí kinh doanh và quản lý, chi phí thuế các loại và chi phí rủi ro đầu t. Kinh
tế càng phát triển, lợng cho vay của các NHTM càng tăng nhanh và loại hình
cho vay cũng trở nên vô cùng đa dạng. ở các nớc đang phát triển (cả Việt
Nam) khi cho vay ngắn hạn chiếm bộ phận lớn hơn cho vay dài hạn.
Cho vay của NHTM, nói rộng ra là tín dụng của NHTM xét về mặt pháp
lý có thể phân thành 3 loại:
+ Cho vay ứng trớc (hay còn gọi là loại cho vay trực tiếp, cho vay tiền).
+ Cho vay dựa trên việc chuyển nhợng trái quyền.
+ Cho vay qua chữ ký (cho vay qua việc cam kết bằng chữ ký).
Mỗi loại cho vay có đặc thù riêng, thủ tục pháp lý khác nhau, mức độ an
toàn khác nhau.
+ Cho vay tiền: Là nghiệp vụ tín dụng trong đó ngời cho vay cam kết
giao cho ngời đi vay một khoản tiền và ngời đi vay cam kết sẽ hoàn trả theo
thời hạn nhất định. Giá trị hoàn trả lớn hơn giá trị khoản vay, phần chênh
lệch đó là lãi cho vay. Lãi cho vay tỷ lệ với số lợng tiền và thời hạn vay. Cho
vay tiền cũng đợc gọi là loại cho vay ứng trớc: thông qua sự thoả thuận giữa
ngời đi vay và ngời cho vay, dựa trên các phơng án kinh doanh ngời đi vay
trình cho ngời cho vay; bên cạnh đó khoản vay còn đợc đảm bảo bằng tài sản
của ngời đi vay. Loại cho vay này chứa đựng rủi ro cao vì thiếu cơ sở đảm
8
bảo bằng những hành vi thơng mại đã đợc thực hiện, nghĩa là khách hàng
nhận tiền vay sau đó mới đa tiền đó vào sử dụng. Khách hàng trong trờng hợp
này có thể sử dụng tiền trái mục đích ghi trên khế ớc vay do đó tạo rủi ro cho
ngân hàng (rủi ro đạo đức).
Loại cho vay này dựa trên 3 nguyên tắc cơ bản:
- Tiền vay phải đợc hoàn trả đúng hạn cả vốn lẫn lãi: Là nguyên tắc quan
trọng hàng đầu. Và để thực hiện nguyên tắc này mỗi lần cho vay ngân hàng
phải định kỳ hạn nợ phù hợp. Khi đến kì hạn nợ ngời đi vay phải lập giấy trả
nợ cho ngân hàng, nếu không ngân hàng sẽ tự động trích tài khoản tiền gửi
của ngời đi vay để thu hồi nợ. Nếu tài khoản tiền gửi không đủ số d thì
chuyển nợ quá hạn. Sau một thời gian nếu khách hàng vẫn không trả nợ,
ngân hàng sẽ phát mại tài sản đảm bảo. Nguyên tắc này hạn chế rủi ro về
thanh khoản.
- Vốn vay phải đợc sử dụng đúng mục đích: Không những là nguyên tắc
mà còn là phơng châm hoạt động của ngân hàng. Hiệu quả của nó trớc hết là
đẩy nhanh nhịp độ phát triển của nền kinh tế hàng hoá, tạo ra nhiều khối lợng
sản phẩm, dịch vụ; đồng thời tạo ra nhiều tích luỹ để thực hiện tái sản xuất
mở rộng. Khi thực hiện nguyên tắc này ngân hàng yêu cầu khách hàng vay
vốn phải sử dụng đúng mục đích đã ghi trong đơn xin vay, bởi vì mục đích
đó đã đợc ngân hàng thẩm định. Nếu phát hiện khách hàng vi phạm nguyên
tắc này, ngân hàng có quyền thu hồi nợ trớc hạn, nếu khách hàng không có
tiền thì chuyển nợ quá hạn.
- Vốn vay phải có tài sản tơng đơng làm đảm bảo: Tài sản này có thể là
hình thành từ vốn vay ngân hàng, là tài sản của ngời đi vay hoặc còn có thể là
tín chấp hoặc bảo lãnh của ngời thứ 3.
Có các loại đảm bảo tín dụng:
* Đảm bảo đối nhân: Là sự cam kết của một hay nhiều ngời về việc phải
trả nợ thay cho ngân hàng thay cho một khách hàng khi khách hàng này
không hoàn trả đợc nợ cho ngân hàng. Ngời đứng ra bảo lãnh phải thoả mãn
9
các điều kiện sau: có đủ năng lực pháp lý, đủ năng lực tài chính lành mạnh,
có khả năng trả nợ thay cho ngời vay vốn, phải có tài sản thế chấp, cầm cố.
Việc bảo lãnh phải đợc lập thành văn bản pháp lý gọi là hợp đồng bảo
lãnh. Hợp đồng đó phải có chứng nhận của cơ quan công chứng hoặc chứng
thực của Uỷ ban nhân dân quận, thị xã thuộc tỉnh, thành phố.
* Đảm bảo đối vật: Có 2 hình thức là thế chấp tài sản và cầm cố tài sản.
Thế chấp tài sản là việc bên vay dùng tài sản là bất động sản thuộc sở hữu
của mình để đảm bảo thực hiện nghĩa vụ trả nợ đối với bên cho vay. Bên đi
vay vẫn tiếp tục sử dụng tài sản thế chấp và chỉ giao cho bên cho vay giấy
chủ quyền của tài sản đó. Còn cầm cố tài sản là việc bên đi vay có nghĩa vụ
giao tài sản là động sản thuộc quyền sở hữu cuả mình cho bên cho vay để
đảm bảo thực hiện nghĩa vụ trả nợ.
+ Cho vay dựa trên việc chuyển nhợng trái quyền: Chủ yếu dựa trên cơ sở
mua bán các công cụ tài chính (hối phiếu, lệnh phiếu, ký hoá phiếu ) tạo ra
nghiệp vụ chiết khấu thơng phiếu của ngân hàng, tức là mua nợ tính trên
khoảng thời gian còn lại cho đến lúc đáo hạn của thơng phiếu. Ngân hàng
không phải cho vay mà là đợc mua một trái phiếu về phơng diện pháp lý, việc
thu nợ có cơ sở vững chắc.
Chiết khấu thơng phiếu đem lại lợi nhuận cao mà tơng đối ít rủi ro so với
cho vay ứng trớc.
Cho vay dựa trên việc chuyển nhợng trái quyền là kết quả của việc thanh
toán trớc hạn một khoản trái quyền hay 1 chứng phiếu mà quyền sở hữu đã đ-
ợc chuyển giao cho ngân hàng, đó chủ yếu là hình thức chiết khấu thơng
phiếu và chuyển nhợng khoản cho vay nghề nghiệp.
+ Tín dụng qua chữ ký (cho vay qua cam kết bằng chữ ký). Ngân hàng
không ứng tiền ra mà chỉ cam kết sẽ trả một khoản nợ của khách hàng trong
trờng hợp khách hàng không trả đợc. Chính vì lý do bảo lãnh cho khách hàng
bằng uy tín của mình mà ngời ta gọi là hành vi cam kết bảo lãnh của ngân
hàng là tín dụng qua chữ ký.
10
Bảo lãnh là đa ra những cam kết của ngân hàng dới hình thức cấp chứng
th và hạch toán theo dõi ở ngoài bảng, chứ thực tế là không (hoặc cha) phải
sử dụng ngay vốn để cho vay nh các loại tín dụng thông thờng. Có 2 loại: bảo
lãnh ngân hàng và tín dụng chấp nhận. Bảo lãnh ngân hàng là hình thức rất
quan trọng trong thực tiễn bởi vì nó là điều kiện rất hay phải có để một số ng-
ời thụ trái đợc trả chậm hoặc không phải ký quỹ tiền đặt cọc. Chẳng hạn nh
cơ quan hải quan yêu cầu phải có sự bảo lãnh của ngân hàng để cho phép
chậm trả, hoặc chính quyền các cấp đòi hỏi phải có bảo lãnh ngân hàng để
giao phó đơn hàng. Còn tín dụng chấp nhận, ngân hàng chấp nhận một hối
phiếu đòi tiền chính ngân hàng và ngay trớc khi hối phiếu đến hạn, khách
hàng phải nộp vào ngân hàng số tiền cần thiết để thanh toán. Nh vậy ngân
hàng không phải chi vốn ra về nguyên tắc. Việc chấp nhận này cho phép chủ
nợ có đợc một chứng từ đảm bảo đợc thanh toán bởi khả năng thanh toán của
ngân hàng đã đứng ra chấp nhận.
Ngoài 3 loại cho vay trên, NHTM còn có các loại cho vay khác nh cho
vay kinh doanh bất động sản, cho vay cầm cố, hùn vốn kinh doanh, các
nghiệp vụ liên kết tín dụng
1.2 Các hình thức đảm bảo tiền vay; nguyên tắc bảo đảm tiền vay:
1.2.1 Hình thức đảm bảo tiền vay bằng tài sản:
Là việc tổ chức tín dụng áp dụng các biện pháp nhằm phòng ngừa rủi ro,
tạo cơ sở kinh tế và pháp lý để thu hồi đợc các khoản nợ đã cho khách hàng
vay.
+ Cầm cố, thế chấp bằng tài sản của khách hàng vay.
+ Bảo lãnh bằng tài sản của bên thứ 3.
+ Bảo đảm bằng tài sản hình thành từ vốn vay.
1.2.2 Hình thức đảm bảo tiền vay trong tr ờng hợp cho vay không có bảo
đảm bằng tài sản:
+ TCTD chủ động lựa chọn khách hàng vay không có bảo đảm bằng tài
sản.
11
+ TCTD Nhà nớc đợc cho vay không có bảo đảm theo chỉ định của chính
phủ.
+ TCTD cho cá nhân, hộ gia đình nghèo vay có bảo lãnh bằng tín chấp
của tổ chức đoàn thể chính trị - xã hội.
1.2.3 Nguyên tắc bảo đảm tiền vay:
+ TCTD có quyền lựa chọn, quyết định việc cho vay có bảo đảm bằng tài
sản, cho vay không có bảo đảm, chịu trách nhiệm về quyết định của mình.
Trờng hợp TCTD Nhà nớc cho vay không có bảo đảm bằng tài sản theo chỉ
định của Chính phủ thì tổn thất do nguyên nhân khách quan của các khoản
cho vay này đợc chính phủ xử lý.
+ Khách hàng vay đợc TCTD lựa chọn cho vay không có bảo đảm bằng
tài sản, nếu trong quá trình sử dụng vốn vay TCTD phát hiện khách hàng vay
vi phạm cam kết trong hợp đồng tín dụng thì TCTD có quyền áp dụng các
biện pháp bảo đảm bằng tài sản hoặc thu hồi nợ trớc hạn.
+ TCTD có quyền xử lý tài sản bảo đảm tiền vay để thu hồi nợ khi khách
hàng vay hoặc bên bảo lãnh không thực hiện hoặc thực hiện không đúng
nghĩa vụ trả nợ đã cam kết.
+ Sau khi xử lý tài sản bảo đảm tiền vay nếu khách hàng vay hoặc bên
bảo lãnh vẫn cha thực hiện đúng nghĩa vụ trả nợ, thì khách hàng vay hoặc
bên bảo lãnh có trách nhiệm tiếp tục thực hiện đúng nghĩa vụ trả nợ đã cam
kết.
1.3 Quan niệm về hiệu quả bảo đảm tiền vay:
NHTM là một doanh nghiệp kinh doanh tiền tệ, mục tiêu hoạt động thì
nhiều và hiệu quả bảo đảm tiền vay là một trong những mục tiêu quan trọng
ngân hàng luôn hớng tới. Có thu hồi đợc nợ cho vay, có lãi; ngân hàng mới
tiếp tục có vốn để tái sản xuất, không ngừng nâng cao uy tín và chất lợng của
mình trên thơng trờng, tìm tòi ra những hình thức dịch vụ mới phục vụ khách
hàng đợc tốt hơn; từ đó thúc đẩy nền kinh tế phát triển chính là mục tiêu hoạt
động ngay từ khi NHTM mới thành lập. Nhng dù cho ngân hàng có thẩm
định dự án vay vốn của khách hàng, đánh giá phơng án sản xuất kinh doanh,
12
phân tích tài chính khách hàng tốt đến đâu đi chăng nữa vẫn không thể nói là
có sự hoàn hảo, ngoài ra còn kể đến những sự biến đổi thị hiếu, nhu cầu đột
ngột của ngời tiêu dùng, ảnh hởng thời tiết, những biến động kinh tế trong và
ngoài nớc cha thể lờng hết đợc. Bản thân khách hàng khi vay vốn ngân hàng
họ không hề có ý định trốn tránh trách nhiệm trả nợ vay của mình đối với
ngân hàng nhng họ bị lâm vào những tình huống bất ngờ, mất khả năng trả
nợ cho ngân hàng từ đó trốn tránh trách nhiệm trả nợ. Hiệu quả bảo đảm tiền
vay tốt biểu hiện ngân hàng cẩn thận, có trách nhiệm cao trong hoạt động của
mình, tất cả các khâu từ thẩm định, đánh giá, phân tích tài chính cho đến ớc
lợng trớc đợc những biến động trong tơng lai (chỉ là tơng đối). Điều này cũng
biểu hiện là ngân hàng hiểu khách hàng và công việc của họ có trách nhiệm
với khoản cho vay của mình, chịu khó thâm nhập tìm hiểu kỹ thị trờng. Thu
hồi đợc nợ cho vay để tái cho vay, tránh đợc tình trạng thua lỗ, kể cả nguy cơ
bị đổ vỡ, tránh gây ảnh hởng xấu tới nền kinh tế.
Và điều quan trọng nhất là hiệu quả đảm bảo tiền vay tốt thì ngân hàng
mới có tiền để trả nợ trả lãi cho những ngời gửi tiền, cho những tổ chức, đoàn
thể, cho các khoản vay từ NHTW và các TCTD khác. Từ đó mới có thể tiếp
tục thu hút huy động vốn cho hoạt động kinh doanh của mình không ngừng
phát triển.
Đảm bảo tiền vay bằng tài sản cầm cố ,thế chấp là những biện pháp của
ngân hàng nhằm thu hồi lại đợc nguồn vốn của mình ,vì phòng khi khách
hàng vay không có khả năng hoàn trả lại món nợ vay thì lúc đó ngân hàng
còn nắm giữ tài sản cầm cố, thế chấp của họ; ngân hàng có quyền đợc đem
những tài sản đó ra phát mại thu hồi lại khoản đã cho vay. Biện pháp này
giảm thiêủ rủi ro cho phía ngân hàng. Hiện nay ở Việt nam có xu hớng tất
yếu đang diễn ra là sự phát triển nhanh của hệ thống các doanh nghiệp ngoài
quốc doanh :nhiều doanh nghiệp này rất muốn mở rộng hoạt động sản xuất
kinh doanh của mình nhng họ lại thiếu vốn tiền mặt . Điều kiện duy nhất dể
họ có thể vay vốn từ ngân hàng là phải có tài sản cầm cố, thế chấp.Những tài
sản cầm cố, thế chấp này phần lớn thờng là tài sản có giá trị sử dụng cao ,
hoặc nhà cửa , đất đai , nhà xởng , dây chuyền sản xuất .Khi nhận những tài
sản này ngân hàng cùng với khách hàng định giá chúng cho đến khi hai bên
13
cùng thống nhât đợc giá trị đảm bảo của tài sản đó .Trớc mắt thì ngân hàng
rất yên tâm vì giá nhà đất, giá máy móc trên thị trờng lúc đó đúng thực là thế
,và ngân hàng đã giảm thiểu tối đa rủi ro bằng cách chỉ cho vay một tỷ lệ
phần trăm nhất định trên giá trị của tài sản đó. Nhng những khó khăn về sau
mới xuất hiện: đó là khi khách hàng không có khả năng trả nợ , hết hạn mà
cũng vẫn cha trả ngân hàng đem tài sản đó ra phát mại thì phần lớn thờng vào
lúc giá trị của chúng trên thị trờng bị suy giảm. Nh nhà đất chẳng hạn, giá cả
loại bất động sản này lên xuống thất thờng theo thời gian , theo thị trờng
,theo quy hoạch; ngân hàng không thể nắm bắt và theo dõi sát sao đợc sự
biến động này,dẫn đến phần lớn khi phát mại ngân hàng phải chấp nhận thu
hồi chỉ đợc một phần nhỏ giá ngân hàng đa ra ban đầu ; đó là cha kể đến
hàng loạt các chi phí khác ngân hàng phải bỏ ra nh chi phí cỡng chế thu hồi
nhà đất trong trờng hợp ngời vay liều lĩnh bất chấp không giao nhà cho ngân
hàng, chi phí cho việc cung cấp tạm nơi c trú cho họ , chi phí cho công chứng
,toà án
Còn đối với thiết bị máy móc dây chuyền sản xuất là tài sản cầm cố, thế
chấp; giá trị của những tài sản này cứ bị hao mòn đi một cách vô hình theo sự
phát triển nh vũ bão của khoa học công nghệ .Máy móc sau hiện đại hơn ,
tinh vi và hiệu quả hơn so với máy móc cũ và vô hình chung đẩy giá trị của
máy cũ ngày càng giảm đi. Để đối phó lại các chủ doanh nghiệp phải tận
dụng đợc máy móc từng ngày từng giờ , phát huy hết hiệu quả công suất của
máy; đến khi ngân hàng nhận tài sản cầm cố thế chấp để phát mại thì ngay
bản thân máy móc đó cũng đã quá sập xệ , hao mòn hữu hình rồi.
Đảm bảo tiền vay bằng tài sản cầm cố, thể chấp không phải chỉ có những
khó khăn trên mà ngay trong thực tế còn nhiều vấn đề phát sinh nữa ngay từ
trong những văn bản về hoạt động này .Các văn bản chồng chéo lên nhau
giữa các Bộ, ngành, Chính phủ và cả Ngân hàng Nhà Nớc; thậm chí có nơi xử
ký theo kiêủ này, nơi kia xử ký theo kiểu khác vì sự hiểu và vận dụng khác
nhau. Nhng chung quy lại cái thiệt nhìn thấy rõ nhất vẫn là về phía ngân
hàng .
Nâng cao hiệu quả đảm bảo tiền vay bằng tài sản cầm cố, thế chấp chính
là việc tìm ra giải pháp để tháo gỡ khó khăn cho các hoạt động này, tìm giải
pháp bình ổn thị trờng giá cả, tăng thêm quyền tự chủ hơn nữa cho các
NHTM, hoàn thiện hệ thống văn bản pháp qui trong hoạt động ngân hàng
14

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét