Thứ Ba, 25 tháng 2, 2014

Mở rộng cho vay đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ tại ngân hàng thương mai cổ phần các doanh nghiệp ngoài quốc doanh VPBank chi nhánh thăng long

39
CHUYÊN ĐỀ TỐT NGHIỆP
vấn, khách sạn, nhà hàng (25,3%). Theo số liệu của Bộ Kế hoạch và Đầu tư
và Tổng cục Thống Kê, chỉ tính riêng năm 2005, số lượng doanh nghiệp đăng
ký mới (chủ yếu là DNV&N) đã là 45.162 doanh nghiệp, bằng tổng số doanh
nghiệp trước giai đoạn 2000.
Có nhiều loại hình doanh nghiệp khác nhau, nếu phân loại doanh nghiệp
theo hình thức sở hữu thì có doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp nhà nước,
doanh nghiệp liên doanh, doanh nghiệp cổ phần… Nếu phân loại theo quy mô
nguồn vốn thì có doanh nghiệp lớn và DNV&N. Trong đề tài này, tập trung
vào DNV&N vì đây là một bộ phận chiếm tỷ trọng lớn trong hệ thống các
doanh nghiệp Việt Nam và đây cũng là những doanh nghiệp đóng góp một vai
trò không nhỏ trong nền kinh tế. Nếu chúng ta có một định hướng đúng đắn
đối với các DNV&N thì sẽ có một sự thúc đẩy phát triển kinh tế to lớn, từ đó
làm điểm tựa vững chắc để đưa đất nước phát triển.
Từ khái niệm DNV&N “là cơ sở sản xuất, kinh doanh độc lập, đã đăng
ký kinh doanh theo pháp luật hiện hành, có vốn đăng ký không quá 10 tỷ
đồng hoặc số lao động trung bình hàng năm không quá 300 người”, cho thấy,
tuyệt đại đa số doanh nghiệp của chúng ta nằm trong “bảng”.
Hiện nay, các DNV&N tập trung chủ yếu ở thành thị, chủ yếu ở các
thành phố lớn như Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh, Hải Phòng, Đà Nẵng…
Thực tế cho thấy, trong những năm gần đây, số lượng DNV&N ngày
càng tăng mạnh. Như tên gọi của mình, DNV&N mang những đặc điểm riêng
rất khác biệt so với các doanh nghiệp lớn trên thị trường. Đồng thời, do đặc
điểm nền kinh tế nước ta đang trong thời kỳ xây dựng xã hội chủ nghĩa mà
DNV&N mang những đặc trưng cơ bản sau:
1.1.2.2 Đặc điểm của các DNV&N
Nguyễn Thị Hảo Lớp: TCDN 46Q
5
39
CHUYÊN ĐỀ TỐT NGHIỆP
a) Các doanh nghiệp vừa và nhỏ chiếm số lượng lớn trên thị trường, và tốc
độ gia tăng cao
Theo luật doanh nghiệp quy định, việc thành lập DNV&N yêu cầu số
vốn thành lập nhỏ, vì vậy số lượng DNV&N chiếm một tỷ trọng lớn trong nền
kinh tế. Với ưu điểm là vốn điều lệ thấp, điều này đã tạo một động lực to lớn
cho các tổ chức kinh tế tư nhân đứng ra thành lập doanh nghiệp của mình.
Mặt khác, từ trước đó đã tồn tại không ít các doanh nghiệp nhà nước có quy
mô vốn nhỏ, lao động ít như các hợp tác xã, các doanh nghiệp nhà nước mới
thành lập hoặc được tách ra…Với đặc điểm là vốn pháp định nhỏ như vậy, số
lượng các DNV&N đã chiếm phần lớn về số lượng trong nền kinh tế và có tốc
độ gia tăng cao.
Tính đến cuối năm 2007, số lượng DNV&N vào khoảng 190.000 doanh
nghiệp; 2,9 triệu hộ kinh doanh cá thể và hơn 20.000 hợp tác xã, nước ta phấn
đấu đến năm 2010, cả nước có 500.000 DNV&N. Con số này đã khẳng định
sự phát triển không ngừng về số lượng của các DNV&N. Với tỷ trọng lớn như
vậy trong nền kinh tế, đòi hỏi chính phủ phải có một chính sách hợp lý cho
các DNV&N, đảm bảo sự phát triển ổn định của kinh tế.
b) Các DNV&N có quy mô vốn nhỏ, lao động ít
Mặc dù tăng nhanh về số lượng nhưng nếu xét về quy mô vốn của các
DNV&N trong những năm gần đây thì lại rất thấp, mới ở mức trung bình trên
2 tỷ đồng/doanh nghiệp. Theo quy định của Luật doanh nghiệp, DNV&N là
các doanh nghiệp có số vốn pháp định không vượt quá 10 tỷ, và có số lao
động không vượt quá 300 lao động. Với số vốn nhỏ như vậy, các doanh
nghiệp gặp nhiều khó khăn trong việc mở rộng thị trường, nâng cao hiệu quả
sản xuất kinh doanh và nhất là khó khăn trong việc cạnh tranh với các doanh
nghiệp lớn sản xuất cùng một loại sản phẩm trong thị trường. Nhất là khi nền
Nguyễn Thị Hảo Lớp: TCDN 46Q
6
39
CHUYÊN ĐỀ TỐT NGHIỆP
kinh tế có biến động lớn, ví dụ biến động về đầu vào, DNV&N khó có khả
năng chống đỡ và dễ bị dẫn đến phá sản. Đồng thời, với số lao động ít (< 300
người), các doanh nghiệp vừa và nhỏ sẽ gặp nhiều cản trở trong quá trình sản
xuất kinh doanh và mở rộng sản xuất kinh doanh. Nhất là với tình trạng ít lao
động, doanh nghiệp vừa và nhỏ sẽ khó có được các lao động với tay nghề cao.
Với số lao động ít như vậy, sẽ khó mở các lớp đào tạo nâng cao tay nghề
nghiệp vụ cho các nhân viên. Và vì đa số người lao động, nhất là người lao
động có tay nghề nghiệp vụ, trình độ chuyên môn giỏi, khi tìm kiếm việc làm
đều có xu hướng muốn vào các doanh nghiệp lớn trên thị trường, điều này
khiến các doanh nghiệp vừa và nhỏ gặp khó khăn trong quá trình tuyển mộ và
phải đầu tư nhiều hơn cho công tác marketing tuyển mộ lao động.
c) Đa số các doanh nghiệp vừa và nhỏ là các doanh nghiệp ngoài quốc
doanh
Các doanh nghiệp vừa và nhỏ chủ yếu là các doanh nghiệp tư nhân
(chiếm khoảng 80%) do đặc điểm về quy mô vốn và số lượng lao động. Điều
này tạo khó khăn cho việc quản lý các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Nhất là đối
với các doanh nghiệp tư nhân hoạt động linh hoạt nhưng kém hiệu quả. Các
doanh nghiệp tư nhân thường khi thành lập và trong quá trình hoạt động chưa
có một tầm nhìn chiến lược cho doanh nghiệp của mình. Và trong khi vận
hành sản xuất kinh doanh, khi có một biến cố xảy ra thì không có kinh
nghiệm chống đỡ hoặc không đủ khả năng chống đỡ, dẫn đến thua lỗ hoặc
nặng hơn là phá sản. Việc quản lý các doanh nghiệp tư nhân cũng rất khó
khăn. Nhiều doanh nghiệp còn cố tình làm ăn phi pháp, cố tình trốn thuế và
không thực hiện đúng chế độ kế toán thống kê. Để quản lý tốt các doanh
nghiệp vừa và nhỏ, đòi hỏi một sự theo dõi sát sao và thực sự có hiệu quả.
Như vậy mới có thể mới kiểm soát được hoạt động của loại hình doanh
nghiệp này.
Nguyễn Thị Hảo Lớp: TCDN 46Q
7
39
CHUYÊN ĐỀ TỐT NGHIỆP
d) Kinh nghiệm hoạt động còn chưa nhiều
Không kể các doanh nghiệp nhà nước vừa và nhỏ đã thành lập lâu đời và
hoạt động ổn định, đa số các doanh nghiệp vừa và nhỏ đều là các doanh
nghiệp tư nhân được thành lập trong hoặc sau thời kỳ mở cửa nền kinh tế
hoặc là các doanh nghiệp Nhà nước vừa được tách ra. Với những doanh
nghiệp vừa và nhỏ thành lập khá lâu mà hoạt động sản xuất kinh doanh tốt, có
hiệu quả, họ sẽ dần dần mở rộng nguồn vốn của mình và đứng vào hàng ngũ
những doanh nghiệp lớn. Như vậy, kinh nghiệm hoạt động của loại hình
doanh nghiệp này chưa nhiều. Với số vốn ít và bề dày kinh nghiệm hạn chế,
các doanh nghiệp vừa và nhỏ gặp khó khăn trong việc duy trì hoạt động sản
xuất kinh doanh, chống đỡ với những thay đổi trong quá trình hoạt động của
mình.
e)Trình độ công nghệ và phương pháp quản lý lạc hậu
Đây là vấn đề nổi cộm đối với tổng thể các doanh nghiệp của nước ta do đặc
điểm nền kinh tế chưa thực sự phát triển.Ở doanh nghiệp Việt Nam hiện nay,
một thực trạng phổ biến trong các DNV&N là hệ thống máy móc, thiết bị lạc
hậu, khoảng 15-20 năm trong ngành điện tử, 20 năm đối với ngành cơ khí,
70% công nghệ ngành dệt may đã sử dụng được 20 năm. Tỷ lệ đổi mới trang
thiết bị trung bình hàng năm của Việt Nam chỉ ở mức 5-7% so với 20% của
thế giới. Công nghệ lạc hậu làm tăng chi phí tiêu hao 1,5 lần so với định mức
tiêu chuẩn của thế giới. Thực trạng này dẫn đến tăng chi phí đầu vào, cao hơn
từ 30 - 50% so với các nước ASEAN, đồng thời dẫn đến chất lượng sản phẩm
giảm, giá thành cao và năng suất thấp (Nguồn t ừ Vietnamnet).
Nhiều DNV&N rất yếu kém trong tiếp cận thông tin và các dịch vụ hỗ
trợ kinh doanh. Một phần là do chất lượng nguồn nhân lực thấp, hạn chế về
trình độ chuyên môn, tin học, ngoại ngữ của giám đốc và đội ngũ quản lý
Nguyễn Thị Hảo Lớp: TCDN 46Q
8
39
CHUYÊN ĐỀ TỐT NGHIỆP
doanh nghiệp, một phần là do đầu tư cho hệ thống thông tin thấp, chưa có
phương tiện kỹ thuật nên chưa theo kịp diễn biến của thị trường.
Vì thế, nhiều quyết định kinh doanh được đưa ra chỉ dựa vào kinh
nghiệm và phán đoán cảm tính, đây là điểm yếu nhất các DNV&N của Việt
Nam trước áp lực cạnh tranh quốc tế.
f) Các doanh nghiệp vừa và nhỏ hoạt động linh hoạt, năng động
Trong nền kinh tế, các doanh nghiệp vừa và nhỏ là những thành phần
hoạt động linh hoạt nhất. Với mỗi thay đổi nhỏ nhất của nền kinh tế, các
doanh nghiệp vừa và nhỏ đều chịu tác động và phải điều chỉnh hoạt động của
mình để phù hợp với mỗi biến đổi đó. Với tính năng động như vậy, các doanh
nghiệp vừa và nhỏ đã đạt được hiệu quả trong hoạt động của mình và đóng
góp không nhỏ vào nền kinh tế. Sự đa dạng về loại hình hoạt động, phương
thức quản lý, sản phẩm của các doanh nghiệp vừa và nhỏ giúp cho họ đứng
vững được trong thị trường.
1.2 Hoạt động cho vay đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ của NHTM
1.2.1. Các hình thức cho vay của NHTM đối với các doanh nghiệp vừa và
nhỏ
Hoạt động cho vay là hoạt động quan trọng nhất của ngân hàng, chiếm tỷ
trọng cao nhất trong tổng tài sản, tạo thu nhập từ lãi lớn nhất. Ở các nước trên
thế giới thì hoạt động tín dụng chiếm 50-60% lợi nhuận, còn ở Việt Nam thì
chiếm tới 60-70%. Song song với hoạt động huy động vốn, tín dụng tạo ra
nguồn lợi nhuận chính duy trì hoạt động của ngân hàng. Hoạt động tín dụng
ngân hàng được dựa trên quyết định của thống đốc ngân hàng nhà nước số
1627/2001/QĐ/NHNN ngày 31 tháng 12 năm 2001 về việc ban hành quy chế
cho vay của tổ chức tín dụng đối với khách hàng. Theo đó quan hệ tín dụng
giữa khách hàng và ngân hàng có thể hiểu như sau:
Nguyễn Thị Hảo Lớp: TCDN 46Q
9
39
CHUYÊN ĐỀ TỐT NGHIỆP
- Khách hàng phải cam kết hoàn trả vốn gốc và lãi với thời gian xác định. Các
khoản cho vay của ngân hàng chủ yếu có nguồn gốc từ các khoản tiền gửi của
khách hàng và các khoản vay mượn khác. Bản thân ngân hàng cũng có trách
nhiệm hoàn trả cả gốc và lãi cho các khoản mượn nói trên. Ngân hàng thu lợi
nhuận là nhờ thu chênh lệch lãi suất cho vay và đi vay, đồng thời sử dụng vốn
vay để thực hiện hoạt động khác như đầu tư, tài trợ… Như vậy, để duy trì sự
tồn tại và phát triển của mình, ngân hàng phải yêu cầu khách hàng thực hiện
đúng cam kết này .
- Khách hàng phải cam kết sử dụng món vay theo mục đích được thoả thuận với
ngân hàng, không trái với quy định của pháp luật và các quy định khác của
ngân hàng cấp trên. Luật pháp quy định phạm vi hoạt động cho các ngân
hàng, và mỗi ngân hàng đều có mục đích và phạm vi hoạt động riêng. Do vậy,
khi cho giải ngân trong phạm vi hoạt động của mình, ngân hàng yêu cầu
khách hàng phải sử dụng vốn đúng mục đích như đã thoả thuận với ngân
hàng.
- Ngân hàng tài trợ dựa trên phương án có hiệu quả. Phương án hoạt động của
người đi vay đảm bảo khả năng thu hồi vốn và lãi của ngân hàng. Mặt khác,
để đảm bảo đòi được nợ, các ngân hàng thường yêu cầu tài sản đảm bảo với
mỗi khoản vay.
Các hoạt động tín dụng ngân hàng
Hoạt động tín dụng ngân hàng được phân loại theo nhiều tiêu thức khác
nhau. Ngân hàng tiến hành phân loại tín dụng để dễ quản lý các khoản tín
dụng và nhằm đa dạng hoá tín dụng thoả mãn nhu cầu của khách hàng. Phân
loại cho vay của ngân hàng quyết định lãi suất cho vay, cũng như loại hình
cho vay thích hợp với mỗi loại tín dụng khác nhau.
Nguyễn Thị Hảo Lớp: TCDN 46Q
10
39
CHUYÊN ĐỀ TỐT NGHIỆP
Việc xác định phương thức cho vay có một ý nghĩa rất quan trọng của
quá trình cấp tín dụng cho khách hàng. Nếu xác định đúng phương thức cho
vay cho từng doanh nghiệp từ đó sẽ tạo ra yếu tố tích cực giúp cho khách
hàng thuận lợi trong quá trình giao dịch và chủ động về tài chính trong quá
trình sản xuất kinh doanh và thuận lợi để thực hiện phương án sản xuất kinh
doanh, khuyến khích được khách hàng về quan hệ vay vốn với ngân hàng,
Ngân hàng chủ động trong việc cân đối giữa nguồn vốn và sử dụng vốn. Nếu
xác định sai phương thức cho vay sẽ dẫn đến Ngân hàng không kiểm soát chặt
chẽ được số vốn cho vay làm tăng rủi ro tín dụng, không khuyến khích được
khách hàng vay vốn.
Hiện nay các ngân hàng thường áp dụng các phương thức cho vay sau:
1.2.1.1 Cho vay thấu chi
Cho vay thấu chi là nghiệp vu cho vay qua đó ngân hàng cho phép
người vay được chi trội trên số dư tiền gửi thanh toán của mình đến một giới
hạn nhất định và trong khoảng thời gian xác định. Giới hạn này được gọi là
hạn mức thấu chi.
Để được thấu chi, khách hàng làm đơn xin ngân hàng hạn mức thấu chi
và thời gian thấu chi (có thể phải trả phí cam kết cho ngân hàng). Trong quá
trình hoạt động, khách hàng có thể ký séc, lập uỷ nhiệm chi, mua thẻ… vượt
số dư tiền gửi để chi trả (song trong hạn mức thấu chi). Khi khách hàng có
tiền nhập về tài khoản tiền gửi, ngân hàng sẽ thu nợ gốc và lãi. Số lãi mà
khách hàng phải trả là:
Số lãi phải trả= Lãi suất thấu chi x Thời gian thấu chi x Số tiền thấu chi.
Các khoản chi quá hạn mức thấu chi sẽ chịu lãi suất phạt và bị đình chỉ
sử dụng hình thức này. Thấu chi dựa trên cơ sở thu và chi của khách hàng
không phù hợp về thời gian và quy mô. Thời gian và số lượng thiếu có thể dự
Nguyễn Thị Hảo Lớp: TCDN 46Q
11
39
CHUYÊN ĐỀ TỐT NGHIỆP
đoán dựa vào dự đoán ngân quỹ song không chính xác. Do vậy, hình thức
cho vay này tạo điều kiện thuận lợi cho khách hàng trong quá trình thanh
toán, chủ động, kịp thời.
Thấu chi là hình thức cho vay ngắn hạn, linh hoạt, thủ tục đơn giản,
phần lớn là không có đảm bảo, có thể cấp cho cả doanh nghiệp lẫn cá nhân
vài ngày trong tháng, vài tháng trong năm, dùng để trả lương, chi các khoản
phải nộp, mua hàng… Hình thức này nhìn chung chỉ sử dụng đối với khách
hàng có độ tin cậy cao, thu nhập đều đặn và kỳ thu nhập ngắn.
1.2.1.2 Cho vay trực tiếp từng lần
Cho vay trực tiếp từng lần là hình thức cho vay tương đối phổ biến của
ngân hàng đối với các khách hàng không có nhu cầu vay thường xuyên,
không có điều kiện để được cấp hạn mức thấu chi. Một số khách hàng sử
dụng vốn chủ sở hữu và tín dụng thương mại là chủ yếu, chỉ khi có nhu cầu
thời vụ, hay mở rộng sản xuất đặc biệt mới vay ngân hàng, tức là vốn từ ngân
hàng chỉ tham gia vào một giai đoạn nhất định của chu kỳ sản xuất kinh
doanh.
Mỗi lần vay, khách hàng phải làm đơn và trình ngân hàng phương án sử
dụng vốn vay. Ngân hàng sẽ phân tích khách hàng và ký hợp đồng cho vay,
xác định quy mô cho vay, thời hạn giải ngân, thời hạn trả nợ, lãi suất và yêu
cầu đảm bảo nếu cần. Mỗi món vay được tách biệt nhau thành các hồ sơ (khế
ước nhận nợ) khác nhau.
Số lượng cho vay= Nhu cầu vốn cho sản xuất kinh doanh - vốn chủ
sở hữu tham gia - Các nguồn vốn khác tham gia.
Trong đó:
Nguyễn Thị Hảo Lớp: TCDN 46Q
12
39
CHUYÊN ĐỀ TỐT NGHIỆP
Nhu cầu vốn cho sản xuất kinh doanh = Nhu cầu vốn đầu tư cho
TSLĐ và TSCĐ - Giá trị tài sản và chi phí không thuộc đối tượng tài trợ
của ngân hàng.
Nếu cho vay dự trên giá trị tài sản đảm bảo:
Số lượng cho vay= Giá trị tài sản đảm bảo x Tỷ lệ cho vay trên giá
trị tài sản đảm bảo.
Theo từng kỳ hạn nợ trong hợp đồng, ngân hàng sẽ thu gốc và lãi.
Trong quá trình khách hàng sử dụng tiền vay, ngân hàng sẽ kiểm soát mục
đích và hiệu quả sử dụng, nếu thấy có dấu hiệu vi phạm hợp đồng, ngân hàng
sẽ thu nợ trước hạn, hoặc chuyển nợ quá hạn. Lãi suất có thể cố định hoặc
thả nổi theo thời điểm tính lãi.
Nghiệp vụ cho vay từng lần tương đối đơn giản. Ngân hàng có thể kiểm
soát từng món vay tách biệt. Tiền cho vay dựa trên giá trị tài sản đảm bảo.
1.2.1.3 Cho vay theo hạn mức
Đây là nghiệp vụ tín dụng theo đó ngân hàng thoả thuận cấp cho khách
hàng hạn mức tín dụng. Hạn mức tín dụng có thể tính cho cả kỳ hoặc cuối kỳ.
Đó là số dư tối đa tại thời điểm tính.
Mỗi lần vay, khách hàng chỉ cần trình bày phương án sử dụng tiền vay,
nộp các chứng từ chứng minh đã mua hàng hoặc dịch vụ và nêu yêu cầu vay.
Sau khi kiểm tra tính chất hợp pháp và hợp lệ của chứng từ, ngân hàng sẽ phát
tiền cho khách hàng.
Đây là hình thức cho vay thuận tiện cho những khách hàng vay mượn
thường xuyên, vốn vay tham gia thường xuyên vào quá trình sản xuất kinh
doanh. Trong nghiệp vụ này, ngân hàng không ấn định trước ngày trả nợ.
Khách hàng có thu nhập, ngân hàng sẽ thu nợ, do đó tạo chủ động quản lý
Nguyễn Thị Hảo Lớp: TCDN 46Q
13
39
CHUYÊN ĐỀ TỐT NGHIỆP
ngân quỹ cho khách hàng. Tuy nhiên, do các lần vay không tách biệt thành
các kỳ hạn nợ cụ thể nên ngân hàng khó kiểm soát hiệu quả sử dụng từng lần
vay. Ngân hàng chỉ có thể phát hiện vấn đề khi khách hàng nộp báo cáo tài
chính, hoặc dư nợ lâu không giảm sút.
1.2.1.4 Cho vay luân chuyển
Cho vay luân chuyển là nghiệp vụ cho vay dựa trên luân chuyển của
hàng hoá. Doanh nghiệp khi mua hàng có thể thiếu vốn. Ngân hàng có thể cho
vay để mua hàng và sẽ thu nợ khi doanh nghiệp bán hàng. Đầu năm hoặc đầu
quý, người vay phải làm đơn xin vay luân chuyển. Ngân hàng và khách hàng
thoả thuận với nhau về phương thức vay, hạn mức tín dụng, các nguồn cung
cấp hàng hoá và khả năng tiêu thụ. Hạn mức tín dụng có thể được thoả thuận
trong 1năm hoặc vài năm. Đây không phải là thời hạn hoàn trả mà là thời hạn
ngân hàng xem xét lại mối quan hệ giữa ngân hàng và khách hàng cũng như
tình hình tài chính của khách hàng.
Việc cho vay dựa trên luân chuyển hàng hoá nên cả ngân hàng và doanh
nghiệp đều phải nghiên cứu kế hoạch lưu chuyển hàng hoá để dự đoán dòng
ngân quỹ trong thời gian tới.
Khi vay, khách hàng chỉ cần gửi đến ngân hàng các chứng từ hoá đơn
nhập hàng và số tiền cần vay. Ngân hàng cho vay và trả tiền cho người bán.
Theo hình thức này, giá trị hàng hoá mua vào (có hoá đơn, hợp pháp, hợp lệ,
đúng đối tượng) đều là đối tượng được ngân hàng cho vay; thu nhập bán hàng
đều là nguồn để chi trả cho ngân hàng. Ngân hàng sẽ cho vay theo tỷ lệ nhất
định tuỳ theo khối lượng và chất lượng quan hệ nợ nần của người vay. Các
khoản phải thu và cả hàng hoá trong kho trở thành vật đảm bảo cho khoản cho
vay. Cho vay luân chuyển thường được áp dụng đối với các doanh nghiệp
Nguyễn Thị Hảo Lớp: TCDN 46Q
14

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét