Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
3.1.2. Nông Quốc Chấn - một nhà thơ dân tộc giàu bản sắc 88
3.2. Tác giả Nông Minh Châu 105
3.2.1. Vài nét về con người và sự nghiệp 105
3.2.2. Nông Minh Châu - một cây bút văn xuôi dân tộc thiểu số tiêu biểu 107
3.3. Nhà thơ Triệu Kim Văn 119
3.3.1. Vài nét về con người và sự nghiệp 120
3.3.2. Triệu Kim Văn - một nhà Dao giàu bản sắc 121
PHẦN III: KẾT LUẬN 132
PHẦN IV: TÀI LIỆU THAM KHẢO 135
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
1
PHẦN I: MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Nghiên cứu về văn học các dân tộc thiểu số Việt Nam hiện đại không
thể không nghiên cứu đến văn học của các địa phương miền núi. Bởi văn học
địa phương là một bộ phận rất quan trọng, góp phần làm nên diện mạo, làm
nên tính chất, đặc điểm và những giá trị to lớn của nền văn học các dân tộc
thiểu số. Nghiên cứu văn học Bắc Kạn cũng là một sự đáp ứng nhu cầu
nghiên cứu văn học miền núi của nước ta hiện nay.
Như ta biết, Bắc Kạn một tỉnh miền núi thuộc diện khó khăn và nghèo
gần nhất nước, nhưng lại là một miền đất giàu bản sắc văn hoá. Chính mảnh
đất ấy là cái nôi sinh ra những nhà văn, nhà thơ, các nghệ nhân, nghệ sỹ là
người dân tộc thiểu số. Ví dụ như: các nhà thơ, nhà văn Nông Quốc Chấn,
Nông Minh Châu, Nông Viết Toại, Bế Sĩ Uông, Triệu Kim Văn, Triệu Sinh,
Dương Thuấn, Nông Thị Ngọc Hoà, Dương Khâu Luông Các nghệ sỹ,
nghệ nhân Nông Văn Khang, Nông Văn Nhủng… Và cũng chính các nhà
văn, nhà thơ, nghệ sĩ đó lại là những người đóng góp nhiều cho văn hoá
văn học Bắc Kạn phát triển và có tiếng nói trong nền văn học các dân tộc
thiểu số Việt Nam.
Tuy nhiên từ trước tới nay vẫn chưa có ai nghiên cứu một cách có hệ
thống, toàn diện về đời sống văn hoá, văn học của Bắc Kạn nói chung và cũng
chưa ai chỉ ra được những đặc điểm về diện mạo cũng như các giá trị về nội
dung và nghệ thuật, của văn học Bắc Kạn trong đời sống văn học các dân tộc
thiểu số Việt Nam nói riêng.
Hiện nay - cũng như ở các tỉnh khác - tỉnh Bắc Kạn đang có chủ trương
đưa văn học địa phương vào trong nhà trường phổ thông để giảng dạy, giúp
các dân tộc trong địa phương mình hiểu rõ hơn về truyền thống văn hoá lịch
sử về đất nước con người nơi mảnh đất mình đang sống và làm việc.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
2
Chính những lý do trên đã trở thành động lực thúc đẩy chúng tôi tiến
hành nghiên cứu về văn học Bắc Kạn một cách tổng thể, đặc biệt là giai
đoạn từ năm 1945 đến nay. Bởi nghiên cứu về văn học Bắc Kạn cũng chính
là việc nhằm đáp ứng chủ trương nghiên cứu giảng dạy văn học địa phương
trong nhà trường phổ thông hiện nay. Đồng thời đây cũng là tiếng nói
khẳng định sự đóng góp có ý nghĩa của văn học Bắc Kạn đối với sự phát
triển văn học các dân tộc thiểu số Việt Nam nói riêng, của văn học Việt Nam
hiện đại nói chung.
Hơn thế nữa, bản thân tôi vốn là người con của Bắc Kạn, nên tôi luôn
có sự mong muốn sẽ hiểu được một cách sâu sắc và cụ thể về văn học tỉnh
nhà. Từ đó, khẳng định những giá trị tiêu biểu của nền văn học Bắc Kạn vốn
rất giàu bản sắc - như là một sự tri ân của tôi đối với quê hương miền núi
thân yêu này.
2. Lịch sử vấn đề
Văn học các dân tộc thiểu số là một vấn đề hiện nay đang được giới
nghiên cứu văn học quan tâm, nhưng những mảng văn học địa phương trong
từng vùng miền khác nhau thì chưa được giới nghiên cứu, phê bình chú ý
đúng mức. Tuy nhiên cũng đã có một số bài, một số công trình nghiên cứu
đã đề cập đến văn học Bắc Kạn, thông qua bài viết về một số cây bút của
Bắc Kạn cũng như một số bài có điểm qua về tình hình văn học Bắc Kạn, cụ
thể như:
Trong Tuyển tập truyện ngắn Bắc Kạn 1997 - 2004 Hội Văn học nghệ
thuật tỉnh Bắc Kạn đã nhận xét: "Văn chƣơng Bắc Kạn đã sớm thăng hoa"
"Tuy sức sáng tạo văn học nghệ thuật còn ở mức khiêm nhƣờng nhƣng họ
thực sự là chủ nhân và đủ sức nuôi dƣỡng tạp chí văn nghệ Ba Bể". [32,tr.6].
Tôn Lan Phương trong cuốn Nhà văn dân tộc thiểu số Việt Nam đời
và văn đã khẳng định những đóng góp của nhà văn, nhà thơ Nông Viết Toại
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
3
đối với văn học Bắc Kạn nói riêng, và văn học dân tộc thiểu số nói chung
như: "Đóng góp của Nông Viết Toại trong đời sống văn hoá của vùng đất này
chắc chắn là không nhỏ. Bên cạnh đó, các sáng tác văn học của anh với
những ƣu điểm nổi bật - đã góp phần làm phong phú hơn đời sống tinh thần
của đồng bào miền núi." [36,tr.673].
Trong bài Khi nghe gió thổi qua Phja Bjoóc thay cho lời đề tựa - nhà
văn Tô Hoài viết "… Ở Nông Quốc Chấn, những từng trải rộng lớn của anh
và cả cuộc đời anh và từng ngày từng đêm, đất chôn rau cắt rốn đã vào thơ
anh, đất quê anh là ngọn suối thơ anh." [8,tr.28], đây là những lời nhận xét
xác đáng của nhà văn Tô Hoài khi ông được sống và làm việc với Nông Quốc
Chấn trên mảnh đất Bắc Kạn.
Nhân dịp kỷ niệm 80 năm ngày sinh của nhà thơ Nông Quốc Chấn, nhà
thơ Lò Ngân Sủn cũng từng nhận xét : “Nhà thơ - nhà lý luận phê bình - nhà
quản lý Nông Quốc Chấn lớn lên, trƣởng thành từ trong dòng thác lớn của
cách mạng của kháng chiến; từ trong núi rừng Việt Bắc; từ cội nguồn văn
hoá dân tộc Tày Bắc Kạn. Nhà thơ - nhà lý luận - nhà quản lý là ba phẩm
chất lớn ở trong ông, do chính ông tạo nên trong suốt cuộc đời ông, và chính
ba phẩm chất lớn đó đã hoà quyện, đúc kết nên con ngƣời ông, nên sự nghiệp
của ông, trong đó phẩm chất chói sáng nhất, toả sáng nhất ở trong ông là thơ
ca, bởi chính thơ ca ông đã làm cho ông trở nên bất tử ” [34,tr.10].
Trong cuốn Kỷ yếu hội thảo Thân thế, sự nghiệp nhà văn Nông Minh
Châu nhà thơ Hữu Thỉnh đã phát biểu "Nông Minh Châu còn là một trong
những ngƣời đặt viên gạch đầu tiên cho văn xuôi dân tộc thiểu số." [31,tr.18].
Còn nhà nghiên cứu, phê bình Lâm Tiến thì đã khẳng định: Nông Minh
Châu chính "Là con đẻ của dân tộc Tày, sống trong lòng dân tộc, đƣợc tắm
mình trong những lời ru tha thiết ân tình của ngƣời mẹ, say sƣa với những
truyện cổ: Kim Quế, Nam Kim - Thị Đan, Lƣơng Quân - Bjoóc La, Quảng
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
4
Tân - Ngọc Lƣơng, Tần Chu. Gắn với những câu truyện cổ tích, những bài
“phuối pác” “phong slƣ” thuộc làu những câu tục ngữ, thành ngữ phong phú
của dân tộc. Đó chính là nguồn nuôi dƣỡng tâm hồn tƣ tƣởng tình cảm của
Nông Minh Châu." [31,tr.29 - 30).
Đó là những lời nhận xét đánh giá đầy sự trân trọng của những nhà thơ,
nhà văn, nhà nghiên cứu về cuộc đời sự nghiệp văn học của Nông Minh Châu
- một nhà văn, nhà thơ tiêu biểu của Bắc Kạn.
Trong Tiểu luận - chân dung văn học Một mình trong cõi thơ nhà văn
Hoàng Quảng Uyên đã đưa nhận định rất chính xác và tinh tế về nhà thơ
Triệu Kim Văn: Tôi “thấy một thứ thơ không ngát hƣơng, phô phang nhƣ
hƣơng thơm hoa trứng gà mà kín đáo, tiềm ẩn nhƣ những “quả sa nhân dƣới
gốc thắp mặt trời"” thơ anh “nhỏ nhẹ ít lời chân thành thơ anh nhƣ những
bông Hoa núi nở, dịu thơm một miền nhớ ” [70,tr.129-133].
Còn đối với Dương Thuấn - nhà thơ dân tộc Tày sinh ra và lớn lên ở
Bắc Kạn đã được nhà thơ, nhà văn hoá Nông Quốc Chấn khẳng định trong
cuốn Nhà văn dân tộc thiểu số Việt Nam đời và văn: "Thơ anh mang lại
hơi thở của thời đại mới và không thoát ly cái gốc của ngƣời Tày của quê
hƣơng Việt Bắc." [36,tr.558].
Cũng trong cuốn Nhà văn dân tộc thiểu số đời và văn - nhà văn Hoàng
Quảng Uyên có những nhận xét về đặc điểm thơ của Dương Khâu Luông như
sau: "Đọc Dƣơng Khâu Luông ta cảm đƣợc vị ngọt của niềm vui trong khoé
mắt vị đắng nƣớc mắt ở đầu môi. Đó là kết quả của sự quan sát chắt lọc,
chiêm nghiệm và cao cả hơn là sự hoà đồng của một tấm lòng trong vạn tấm
lòng. Đây là mặt mạnh trong thơ Dƣơng Khâu Luông: Nói ít, gợi nhiều."
[36,tr.435]
Qua những ý kiến nhận xét, đánh giá của các nhà văn, nhà nghiên cứu
viết về văn học Bắc Kạn nói chung, cũng như về các nhà thơ, nhà văn viết về
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
5
Bắc Kạn nói riêng, chúng ta nhận thấy rõ một điều: Bắc Kạn là một vùng đất
đã sinh ra nhiều nhà thơ, nhà văn dân tộc thiểu số và chính họ đã làm nên một
diện mạo văn học Bắc Kạn với những nét đặc trưng riêng, góp phần tạo nên
một diện mạo văn học thiểu số Việt Nam như một vườn hoa đầy hương sắc.
Tuy nhiên đó mới chỉ là những nghiên cứu, những lời nhận xét, đánh
giá lẻ tẻ về một số cá nhân các nhà thơ, nhà văn Bắc Kạn, cho tới nay chúng
tôi vẫn chưa thấy xuất hiện một công trình nghiên cứu nào một cách tổng thể,
toàn diện về văn học Bắc Kạn. Chính vì vậy chúng tôi thấy rằng rất cần thiết
nghiên cứu một cách toàn diện và hệ thống văn học Bắc Kạn, để thấy được
những đặc điểm những giá trị nổi bật cũng như cần khẳng định những đóng
góp quan trọng của nó đối với sự phát triển của văn học dân tộc thiểu số nói
riêng, đối với văn học Việt Nam nói chung.
3. Mục đích, phạm vi nghiên cứu
3.1. Mục đích
Tìm hiểu nghiên cứu văn học Bắc Kạn ở cả thể loại văn xuôi và thơ để
chỉ ra đặc điểm nổi bật của văn học Bắc Kạn trong quá trình vận động phát
triển từ năm 1945 đến nay.
Khẳng định đóng góp của văn học Bắc Kạn đối với sự nghiệp phát triển
của văn học thiểu số Việt Nam hiện đại.
Giới thiệu một số gương mặt các nhà thơ, nhà văn tiêu biểu của văn học
Bắc Kạn.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Để thực hiện được luận văn này chúng tôi đã đọc và nghiên cứu những
tài liệu sau:
Toàn bộ những tác phẩm văn học (Thơ và văn xuôi) do các nhà văn,
nhà thơ Bắc Kạn sáng tác từ sau năm 1945 đến nay.
Những bài nghiên cứu về văn học Bắc Kạn của các nhà thơ, nhà văn,
nhà nghiên cứu phê bình.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
6
- Một số sáng tác văn học của những địa phương khác (để so sánh đối
chiếu với văn học Bắc Kạn).
- Một số sách lý luận, phê bình liên quan đến đề tài nghiên cứu.
4. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Chỉ ra những đặc điểm nổi bật của văn học Bắc Kạn từ năm 1945
đến nay ở các phương diện: Đội ngũ tác giả và đặc điểm nội dung, nghệ
thuật của tác phẩm.
- Khẳng định những đóng góp quan trọng của văn học Bắc Kạn nói
chung, của các nhà thơ, nhà văn Bắc Kạn nói riêng đối với sự phát triển của nền
văn học thiểu số Việt Nam hiện đại.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
Trong quá trình thực hiện đề tài nghiên cứu chúng tôi đã sử dụng các
phương pháp sau.
Phương pháp thống kê, phân loại.
Phương pháp so sánh, đối chiếu.
Phương pháp phân tích, tổng hợp, và một số phương pháp khác (nghiên
cứu liên ngành).
6. Cấu trúc luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, phần nội dung chính gồm 3 chương.
Chƣơng 1: Bắc Kạn - một vùng đất miền núi cao giàu truyền thống văn
hoá văn học
Chƣơng 2: Một số đặc điểm nổi bật của văn học Bắc Kạn từ năm
1945 đến nay
Chƣơng 3: Một số tác giả tiêu biểu của văn học Bắc Kạn
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
7
PHẦN II: NỘI DUNG
CHƢƠNG 1
BẮC KẠN - MỘT VÙNG ĐẤT MIỀN NÚI CAO GIÀU
TRUYỀN THỐNG VĂN HOÁ, VĂN HỌC
1.1. Một vài nét về Bắc Kạn - một tỉnh miền núi vùng cao tiêu biểu
Như chúng ta đã biết, theo dư địa chí của Nguyễn Trãi thì từ thời Hùng Vương
với hai vương quốc cổ là Văn Lang, Âu Lạc (Thế kỉ VII- II TCN) vùng đất
Cao Bằng, Bắc Kạn thuộc bộ Vũ Định, là một trong 15 bộ hợp thành nước
Văn Lang. Phía Đông giáp bộ Lục Hải (Lạng Sơn), phía Tây giáp bộ Tân Hưng
(vùng Hà Giang- Tuyên Quang).
Đây là địa bàn sinh sống của nhiều dân tộc thiểu số, nhưng từ thế kỉ II
TCN đến thế kỉ X - nước ta bị phong kiến Phương Bắc đánh chiếm, Bắc Kạn
lúc này bị chia thành nhiều châu “ki mi” để chúng thuận lợi trong việc cai trị
và bóc lột.
Đến năm 938 khi Ngô Quyền đánh thắng quân xâm lược trên sông
Bạch Đằng và chấm dứt một nghìn năm Bắc thuộc - đất nước ta mở ra thời kì
độc lập tự chủ. Từ thế kỉ thứ X trở đi, đặc biệt là dưới thời Lý - Trần đất nước
ta đã có hệ thống hành chính và chia ra thành nhiều đơn vị: Lộ, Phủ, Châu.
Lúc này vùng đất từ Thái Nguyên lên Bắc Kạn, Cao Bằng gọi là phủ Phú
Lương, dưới phủ là các Châu. Bắc Kạn gồm các châu: Thanh Bình (Chợ
Mới), Vĩnh Thông (Bạch Thông - Ba Bể - Pắc Nặm), Cảm Hoá (Ngân Sơn -
Na Rì), cuối cùng là Châu An Đức.
Đến thời Lê thì vùng đất Bắc Kạn được gọi là Phủ Thông Hoá, thuộc
trấn Thái Nguyên, nằm trong Bắc Đạo.
Cuối thế kỉ XIX đầu thế kỉ XX dưới ách thống trị của thực dân Pháp -
Bắc Kạn bị chia thành 5 châu đó là: Châu Chợ Đồn, Chợ Rã, Bạch Thông,
Ngân Sơn, Na Rì.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
8
Sau năm 1945, tỉnh Bắc Kạn vẫn bao gồm có 5 huyện, tuy nhiên về sau
này trải qua nhiều biến cố của lịch sử, Bắc Kạn đã có nhiều thay đổi. Nhưng
đến năm 1965 do yêu cầu của công cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước của
dân tộc, Bắc Kạn đã sát nhập với Thái Nguyên gọi chung là tỉnh Bắc Thái. Và
đến năm 1997 - Bắc Kạn lại được tách ra, tái thiết lập tỉnh Bắc Kạn với 7
huyện một thị xã, 112 xã, và có 4 phường, 6 thị trấn, với tổng diện tích của
toàn tỉnh là 4857,21 km
2
.
Như đã biết, Bắc Kạn nằm ở thềm cao giữa trung tâm vùng Việt Bắc,
có địa hình đồi dốc núi cao, có những dòng sông khá lớn như sông Cầu, sông
Năng lại có kiến tạo địa chất độc đáo với Hồ Ba Bể - một cảnh đẹp thiên
nhiên kì thú, với bao truyện cổ tích, bao huyền thoại ẩn hiện xung quanh, với
những dòng thác tuôn trào trắng xoá, quanh năm mây mù bao phủ. Là một
tỉnh miền núi vùng cao, Bắc Kạn có những cánh rừng bạt ngàn với muôn loài
cây cối và muôn loài muông thú quý hiếm, lại có cả những cánh đồng lúa
rộng lớn, có nương rẫy trù phú Có thể nói đây là một vùng đất đẹp một cách
hoang dã, hùng vĩ, bí ẩn và cũng rất đỗi nên thơ.
Mảnh đất Bắc Kạn là nơi hội tụ của nhiều dân tộc thiểu số sinh sống,
với nhiều phong tục tập quán khác nhau, nên đã trở thành một mảnh đất mang
đậm bản sắc dân tộc. Bản sắc đó được thể hiện đậm đà trong cả đời sống vật
chất và đời sống tinh thần của nhân dân các dân tộc Bắc Kạn.
Chính từ điều kiện thiên nhiên, điều kiện lịch sử như thế - Bắc Kạn đã
thực sự là mảnh đất đầy tiềm năng về văn hoá, văn học. Mảnh đất này cũng đã
sản sinh ra nhiều nhà thơ, nhà văn dân tộc miền núi có tầm cỡ khu vực và tầm
cỡ quốc gia, họ là những người đã có đóng góp lớn cho nền văn học dân tộc
thiểu số Việt Nam nói riêng, cho nền văn học nói chung.
Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên http://www.lrc-tnu.edu.vn
9
1.2. Bắc Kạn - một vùng đất giàu bản sắc văn hoá, văn học
1.2.1. Vài nét về khái niệm bản sắc văn hoá
Khi nói về văn hoá - người ta đã dẫn ra đến hơn 400 định nghĩa khác
nhau. Tuy nhiên tất cả các định nghĩa đó đều có những nội dung chung nhất.
Và theo cách định nghĩa của UNESCO thì “Văn hoá là tổng thể những nét
riêng biệt tinh thần và vật chất, trí tuệ và cảm xúc quyết định tính cách của
một xã hội hay của một nhóm ngƣời trong xã hội. Văn hoá bao gồm nghệ
thuật và vật chất, những lối sống, những quyền cơ bản của con ngƣời, những
hệ thống các giá trị, những tập tục và những tín ngƣỡng” [53,tr.1153].
Hoặc có thể diễn đạt một cách ngắn gọn hơn nữa thì: “Văn hoá là một
tổng thể các giá trị vật chất và tinh thần đƣợc con ngƣời sáng tạo ra và phát
triển theo lịch sử, khác với các đối tƣợng của thiên nhiên”. (Dẫn theo
[65,tr.16] ).
Từ những khái niệm, những nhận định trên ta có thể hiểu văn hoá như
sau: "Văn hoá là một hệ thống hữu cơ các giá trị vật chất và tinh thần do con
ngƣời sáng tạo và tích luỹ qua quá trình hoạt động thực tiễn, trong sự tƣơng
tác giữa con ngƣời với môi trƣờng tự nhiên và xã hội”. [62,tr,10].
Còn khi chúng ta nói đến bản sắc văn hoá - hiện nay có rất nhiều cách
để chỉ ra bản sắc văn hoá, nhưng tựu chung lại các nhà nghiên cứu đều có sự
đồng nhất với nhau về một số ý cơ bản. Trong bản luận văn này người viết chỉ
đưa ra vài định nghĩa có tính chất khái quát, tiêu biểu để làm sáng tỏ thêm cho
đề tài của mình.
Trong Bách khoa toàn thư của Liên Xô nói về bản sắc văn hoá các nhà
nghiên cứu đã chỉ ra: “Mỗi dân tộc có đặc tính của mình, chỉ riêng mình mới
có, còn các dân tộc khác thì không có”. [54,tr.7-8].
Nhà thơ, nhà văn hoá Nông Quốc Chấn nhận định về bản sắc văn hoá
một cách cụ thể hơn đó là: “Bản sắc văn hoá Việt Nam bao gồm nhiều nét đặc
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét