Thứ Ba, 11 tháng 2, 2014

Thực trạng ô nhiễm môi trường tại các Khu công nghiệp - Khu chế xuất ở Việt Nam nhìn từ lý thuyết trò chơi

Tiểu luận kinh tế vi mô GVHD: TS. Lê Khương Ninh
chính trị, quân sự, ngoại giao). Người chơi có khả năng chọn một số hành động.
Thông thường, số lượng người chơi được giả định là cố định trong lúc trò chơi được
thực hiện và các trò chơi được đặc trưng bởi số lượng người chơi (như hai, ba người
chơi hay n người chơi). Mỗi người chơi chỉ hành động sao cho đạt được kết quả tốt
nhất cho mình.
+ Chiến lược: mỗi hành động của người chơi có thể chọn thực hiện là một
chiến lược. Tùy thuộc vào trò chơi đang xem xét, một chiến lược có thể rất đơn giản
(như chọn thêm một lá bài khi chơi bài) hay rất phức tạp (như xây dựng căn cứ quân
sự chống tên lửa hạt nhân của đối phương) nhưng mỗi chiến lược được giả định là
một hành động được hoạch định để mang lại kết quả tối ưu cho người chơi. Tuy số
chiến lược dành cho mỗi người chơi là không giới hạn nhưng lý thuyết trò chơi có thể
chỉ đề cập đến tình huống mà trong đó mỗi người chơi chỉ có hai chiến lược. Trong
trò chơi bất hợp tác, những người chơi không thể đạt được các thõa thuận với nhau
về chiến lược mà họ sẽ thực hiện, nghĩa là những người chơi không chắc chắn về
chiến lược mà người chơi khác sẽ thực hiện. Ngược lại, trong trò chơi hợp tác, người
chơi biết chắc chắn về điều này.
+ Kết quả: lợi ích mà mỗi người chơi nhận được từ một trò chơi được gọi là
kết quả. Kết quả tổng hợp tất cả cái gặt hái được từ trò chơi. Kết quả bao gồm các kết
quả mang tính chất giá trị (như lợi nhuận) cũng như cảm xúc của người chơi (như
xấu hổ hay tự hào). Kết quả được đo lường bởi hữu dụng hay giá trị mà người chơi
nhận được. Ở đây, ta giả định rằng người chơi có thể xếp hạng kết quả từ ưu thích
nhất đến kết quả ít ưu thích nhất và cố gắng đạt đến kết quả ưu thích nhất.
2.1.5. Khái niệm chiến lược ưu thế và điểm cân bằng Nash
Chiến lược ưu thế là chiến lược mang đến kết quả tốt nhất cho một người
chơi bất chấp chiến lược của người chơi kia.
Điểm cân bằng Nash là một cặp chiến lược (a*,b*) đại diện cho giải pháp
cân bằng đối với hai người chơi mà trong đó a* là chiến lược tối ưu của A để đối phó
với b* và b* là chiến lược tối ưu cho B đối phó với a*. Rộng hơn, cân bằng Nash là
một tập hợp chiến lược mà trong đó không có người chơi nào có thể làm tăng lợi ích
của mình bằng cách thay đổi chiến lược. Khái niệm cân bằng Nash rất quan trọng vì
nó giúp mô tả các tình huống mà trong đó mỗi người chơi thực hiện chiến lược tốt
nhất cho mình để đối ứng với các chiến lược mà người chơi khác đang thực hiện.
HVTH: Nguyễn Công Thức
Trang 5
Tiểu luận kinh tế vi mô GVHD: TS. Lê Khương Ninh
Ví dụ bảng 2.1.5, cho thấy chiến lược chi tiêu quảng cáo thấp (L) là chiến
lược ưu thế của B. Bất chấp chiến lược của A là như thế nào thì chiến lược L sẽ cho
B lợi nhuận cao hơn chiến lược H.
Bảng 2.1.5: Trò chơi quảng cáo ở hình thức thông thường
B
Chiến lược L H
A L 7,5 5,4
H 6,4 6,3
Giả sử cấu trúc trò chơi là được biết đối với cả hai người chơi A và B nên A
nhận ra B sẽ chọn chiến lược ưu thế này và vì vậy sẽ chọn chiến lược tốt nhất để đối
chọi với B, đó là chiến lược L. Việc lựa chọn chiến lược ưu thế này dẫn đến việc (A:
L, B: L) sẽ được chọn và kết quả sẽ là 7 cho A và 5 cho B.
Chiến lược (A: L, B: L) là một điểm cân bằng Nash. Nếu A biết B sẽ chọn L
thì A sẽ chọn chiến lược tốt nhất là L. Tương tự, nếu B biết A sẽ chọn L thì tốt nhất
là B chọn L. Thật vậy, do L là chiến lược ưu thế của B nên đây là lựa chọn tốt nhất
của B bất chấp A chọn chiến lược nào. Vì vậy, chọn lựa (A: L, B: L) thõa mãn tính
đối xứng của điểm cân bằng Nash.
Để thấy tại sao các cặp chiến lược khác trong bảng 2.1.5 không phải là cân
bằng Nash, hãy xem xét từng cặp một. Với lựa chọn (A: H, B: L) thì A có cơ hội đạt
đến trạng thái tốt hơn - nếu A biết B sẽ chọn L thì A có thể thu được lợi nhuận cao
hơn nếu cũng chọn L. Như vậy, chọn lựa (A: H, B: L) không phải là điểm cân bằng
Nash. Không có chọn lựa nào trong hai kết quả còn lại mà trong đó B chọn H đáp
ứng được yêu cầu điểm cân bằng Nash vì không cần biết A làm gì, B có thể làm tăng
lợi nhuận nếu chọn L. Do L là chọn lựa ưu thế của B nên không có kết quả nào từ
việc B chọn H có thể là cân bằng Nash.
2.2. Giới thiệu lý thuyết trò chơi lặp lại vô số lần
Trong kinh tế, lý thuyết trò chơi được ứng dụng rất rộng rãi như: trò chơi
một lần không lặp lại, trò chơi lặp lại vài lần, trò chơi lặp lại vô số lần, trò chơi nhiều
giai đoạn, trong đó trò chơi lặp lại vô số lần là trò chơi khá phổ biến trong thực tiễn
kinh doanh của doanh nghiệp và trong phần nghiên cứu của đề tài chỉ tập trung đi sâu
tìm hiểu trò chơi lặp lại vô số lần.
HVTH: Nguyễn Công Thức
Trang 6
Tiểu luận kinh tế vi mô GVHD: TS. Lê Khương Ninh
2.2.1. Trò chơi nghịch lý người tù
Trò chơi nghịch lý người tù được đề cập lần đầu tiên bởi nhà kinh tế học
người Canada Albert William Tucker (1905-1995) vào thập niên 1940. Trò chơi này
xuất hiện từ thực tế như sau. Hai người bị bắt vì nghi phạm tội. Người thẩm vấn chỉ
có rất ít bắng chứng phạm tội của họ và muốn làm họ thú nhận. Ông ta tách rời họ và
bào: “Nếu anh thú nhận và bạn anh không thì tôi sẽ giảm hình phạt cho anh xuống
còn 6 tháng tù, nhưng thú nhận của anh sẽ làm bạn anh phải nhận mức án 10 năm.
Nếu cả hai thú nhận, mỗi người sẽ chỉ phải chịu 03 năm tù”. Mỗi người tù cũng biết
là nếu không ai thú nhận thì mỗi người chỉ chịu 02 năm tù do thiếu bằng chúng kết
tội.
Bảng 2.2.1: Trò chơi nghịch lý người tù
B
Chiến lược Thú nhận Không thú nhận
A Thú nhận A: 3 năm; B: 3 năm A: 6 tháng; B: 10 năm
Không thú nhận A: 10 năm; B: 6 tháng A: 2 năm; B: 2 năm
Ma trận kết quả ở hình thức thông thường của trò chơi này như trong bảng.
Thú nhận là chiến lược ưu thế của cả A và B. Vì vậy, các chiến lược này hình thành
nên cân bằng Nash và chiến lược chia cắt này của người thẩm vấn thành công. Tuy
nhiên, thõa thuận trước giữa hai người phạm tội là không thú nhận thì sẽ giảm hạn tù
của họ từ 3 năm xuống 2 năm. Giải pháp “hợp lý” này không ổn định vì mỗi người tù
muốn chuyển sự bất lợi cho người kia. Do đó, đây là nghịch lý, nghĩa là kết quả tối
ưu lại không ổn định.
2.2.2. Hợp tác và trò chơi lặp lại vô số lần
Các vấn đề tương tự với Nghịch lý người tù xuất hiện trong nhiều tình huống
thực tế khác. Bảng 2.2.2. minh họa nghịch lý của một trò chơi quảng cáo.
Bảng 2.2.2: Trò chơi quảng cáo với kết quả mong muốn không ổn định
B
Chiến lược L H
A L 7,7 3,10
H 10,3 5,5
Ở đây, chiến lược cả hai cùng chọn L mang lại lợi nhuận cao nhất nhưng
không ổn định. Tình huống này được gọi là chiến lược quảng cáo “phòng thủ”, nghĩa
là nếu cùng giảm chi phí quảng cáo thì sẽ làm tăng lợi ích cho cả hai. Thõa thuận như
HVTH: Nguyễn Công Thức
Trang 7
Tiểu luận kinh tế vi mô GVHD: TS. Lê Khương Ninh
vậy lại không ổn định vì các doanh nghiệp có thể làm tăng bằng cách không tuân thủ
thõa nhuận. Do đó, cuối cùng cả hai chọn chiến lược H, dẫn đến lợi nhuận thấp hơn.
Trò chơi lặp lại vô số lần là trò chơi khá phổ biến trong thực tế kinh doanh
của doanh nghiệp, được sử dụng rộng rãi trong phân tích chiến lược quảng cáo, liên
kết hỗ trợ với chiến lược kích thích, chiến lược chất lượng sản phẩm của các doanh
nghiệp… Ví dụ, trò chơi chất lượng sản phẩm là trò chơi giữa khách hàng và doanh
nghiệp thể hiện như sau: khách hàng muốn mua sản phẩm chất lượng cao trong khi
doanh nghiệp lại muốn tối đa hóa lợi nhuận. Trong trò chơi một lần không lặp lại,
một doanh nghiệp sẽ có động cơ bán sản phẩm chất lượng thấp nếu khách hàng
không thể biết được chất lượng sản phẩm trước khi mua.
Vấn đề sẽ khác đi nếu trò chơi lặp lại vô số lần. Giả sử người khách hàng
bảo với doanh nghiệp: “Tôi sẽ mua nếu sản phẩm tốt. Nếu sản phẩm xấu, tôi sẽ bảo
tất cả người quen đừng bao giờ mua sản phẩm của anh”. Với chiến lược này của
người mua, doanh nghiệp nên làm gì? Nếu lãi suất không quá cao thì doanh nghiệp
nên bán sản phẩm tốt. Lý do rất đơn giản. Nếu bán sản phẩm xấu, doanh nghiệp sẽ
thu được lợi nhuận 10 đvt ngay lúc đó. Đây là lợi ích thu được do lừa dối. Tuy nhiên,
mất mát của việc bán sản phẩm xấu là không có lợi nhuận vĩnh viễn ngay sau khi bán
sản phẩm xấu. Nếu lãi suất thấp, lợi nhuận thu được một lần do lừa dối này không thể
bù đắp sự mất mát vĩnh viễn không có lợi nhuận. Do đó, doanh nghiệp không nên lừa
dối.
HVTH: Nguyễn Công Thức
Trang 8
Tiểu luận kinh tế vi mô GVHD: TS. Lê Khương Ninh
Chương 3
THỰC TRẠNG Ô NHIỄM MÔI TRƯỜNG TẠI CÁC
KHU CÔNG NGHIỆP- KHU CHẾ XUẤT Ở VIỆT NAM NHÌN TỪ
LÝ THUYẾT TRÒ CHƠI
3.1. Sự phát triển Khu công nghiệp - Khu chế xuất ở Việt Nam giai đoạn
2000-2007
Cùng với tiến trình phát triển của đất nước trong sự nghiệp CNH, HĐH nhất
là khi nước ta đã bước bào thời kỳ hội nhập kinh tế quốc tế, khắp nơi trong cả nước,
từ thành thị đến nông thôn đầu tư trực tiếp nước ngoài, đầu tư trong nước vào lĩnh
vực sản xuất ngày càng tăng. Sau hơn 20 năm thực hiện công cuộc đổi mới, nền kinh
tế nước ta đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng. Trong đó, có nhiều khu công
nghiệp, khu chế xuất (KCN, KCX) ra đời phát triển tương đối nhanh và là khu vực đi
đầu trong quá trình CNH, HĐH đất nước, tập trung chủ yếu ở miền Đông Nam Bộ,
đồng bằng sông Hồng và vùng ven biển miền Trung.
Biểu đồ: 3.1: Sự phát triển KCN, KCX ở Việt Nam giai đoạn 2000-2007
(Nguồn: Vụ quản lý KCN, KCX)
Giai đoạn năm 2000 - 2002 số lượng KCN, KCX tăng với tốc độ chậm,
nhưng bắt đầu từ sau năm 2002 đã có sự tăng lên mạnh mẽ, tăng nhanh nhất là năm
2007. Điều này bước đầu cho thấy những chủ chương, chính sách phát triển kinh tế
của Đảng và Nhà nước đã phát huy tác dụng, thu hút đầu tư và ngoài nước, tạo công
ăn việc làm cho người lao động, bước đầu mang lại hiệu quả thiết thực. Trong các
KCN, KCX nhiều nhà máy, xí nghiệp đã và đang tiếp tục được đầu tư mạnh mẽ với
HVTH: Nguyễn Công Thức
Trang 9
SỐ LƯỢNG KCN, KCX TỪ NĂM 2000-2007
0
20
40
60
80
100
120
140
160
180
200
2000 2001 2002 2003 2004 2005 2006 2007
NĂM
KCN, KCX
Tiểu luận kinh tế vi mô GVHD: TS. Lê Khương Ninh
qui mô ngày càng lớn. Đây chính là cơ hội để nước ta có thể phát triển một nền kinh
tế toàn diện và hội nhập được với khu vực và thế giới.
Cụ thể, giai đoạn năm 2000 - 2002 mức tăng lên của các KCN, KCX tương
đối thấp, năm 2002 lượng KCN, KCX là 75, tăng 12 KCN, KCX so với năm 2000,
với tỷ lệ tăng là 19,0% (phụ lục). Diện tích đất công nghiệp cho thuê năm 2002 là
8.892 hecta, chiếm 72,7% diện tích đất công nghiệp có thể cho thuê. So với năm 2000
thì diện tích đất công nghiệp cho thuê tăng 1.217 hecta, tương đương 15,7%, tỷ lệ đất
công nghiệp cho thuê trên đất công nghiệp có thể cho thuê năm 2000 là 76,8% cao
hơn 72,7% của năm 2002, đồng thời tạo việc làm cho 883.688 lao động. Trong giai
đoạn này, nước ta đang trong giai đoạn hoàn thiện môi trường đầu tư, đẩy mạnh quan
hệ hợp tác với bên ngoài, từng bước thu hút nguồn vốn đầu tư bên ngoài, công
nghệ, kinh nghiệm quản lý của nước ngoài thúc đẩy kinh tế tăng trưởng. Tính đến
thời điểm năm 2002 cả nước đã có 4.447 dự án đầu tư nước ngoài được cấp giấy
phép, với tổng số vốn đăng ký là 43.194 triệu USD, trong đó vốn pháp định là
20.357,6 triệu USD. Phần lớn vốn đầu tư nước ngoài (trên 70%) vào nước ta xuất
phát từ các nước Châu Á (trong đó các nước ASEAN chiếm gần 25%, các nước và
lãnh thổ ở khu vực Đông Bắc Á như: Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan chiếm trên
31%) (nguồn: niên giám thống kê 2002. NXB thống kê, Hà Nội 2002). Khi nền kinh
tế các nước này lâm vào khủng hoảng do tác động của cuộc khủng hoảng kinh tế
1997 nên hạn chế khả năng đầu tư của nước ngoài vào nước ta. Kết quả từ năm 1997
đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam bắt đầu suy giảm, số vốn đăng ký đạt mức
cao hơn năm 1992 không nhiều và đến năm 2002 lại giảm xuống. Nếu so với năm
1997 số dự án được duyệt năm 1998 chỉ bằng 79,71%, năm 1999 chỉ bằng 90,4%,
năm 2000 tuy có tăng nhưng cũng chỉ tăng 7,5% so với năm 1997, tới năm 2002 số
dự án đã tăng 51,59% so với năm 1997.
Giai đoạn năm 2002 - 2006 số lượng KCN, KCX tăng nhanh, trung bình
hàng năm tăng 17,5 KCN, KCX, với tốc độ tăng 93,3%. Nếu năm 2002 trên địa bàn
cả nước có 75 KCN, KCX thì đến năm 2006 số lượng tăng lên thành 145. Diện tích
đất công nghiệp có thể cho thuê cũng có sự tăng lên đáng kể, tăng 9.863 hecta so với
12.371 hecta của năm 2002. Trong đó, diện tích đất công nghiệp cho thuê là 13.675
hecta, chiếm tỷ lệ 61,5% diện tích đất công nghiệp có thể cho thuê, diện tích đất công
nghiệp cho thuê năm 2006 tăng 52,1% so với năm 2002, tương đương 4.683 hecta
nhưng tỷ lệ diện tích đất công nghiệp cho thuê có chiều hướng giảm so với năm 2002
(75,6%). Trong quá trình thực hiện mục tiêu CNH, HĐH đất nước đưa nước ta trở
thành một nước công nghiệp vào năm 2020, chúng ta đã bước đầu thành công trong
HVTH: Nguyễn Công Thức
Trang 10
Tiểu luận kinh tế vi mô GVHD: TS. Lê Khương Ninh
việc xây dựng cơ sở hạ tầng phục vụ cho quá trình CNH, HĐH. Các KCN, KCX lần
lượt được xây dựng trên phạm vi khắp cả nước, nhằm khai thác thế mạnh kinh tế của
từng địa phương, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cũng như tạo việc làm cho
một bộ phận lớn dân cư. Tuy nhiên, việc phát triển quá nhanh cơ sở hạ tầng dẫn trong
khi khả năng thu hút đầu tư trong và ngoài nước vào các KCN, KCX hiệu quả chưa
cao dẫn đến lượng cung tăng nhanh, trong khi nhu cầu còn thấp dẫn đến cung lớn hơn
cầu gây ra tình trạng dư thừa. Bên cạnh đó, vấn đề quy hoạch phát triển các KCN
chưa được xét trên bình diện của cả nước và của các vùng mà chỉ là quy hoạch
của riêng từng tỉnh, thành phố nên xảy ra tình trạng nhà nhà làm KCN.
Mặc dù, tiềm năng phát triển kinh tế của nước ta là rất lớn, nhiều nhà đầu
nước ngoài đánh giá cao điều này nhưng vấn đề về môi trường pháp lý là một trong
những yếu tố gây nhiều trở ngại nhất. Môi trường pháp lý mang nặng tính hành chính
đã làm không ít nhà đầu tư phải thận trọng khi quyết định đầu tư vào Việt Nam.
Chính vì vậy hiện tượng nhiều KCN, KCX đã xây dựng xong nhưng hoạt động cầm
chừng, việc xây dựng các KCN, KCX ở nước ta đang ở trong tình trạng vừa
thừa vừa thiếu, các chính sách đưa ra không theo kịp sự vận động biến đổi của
thực tế đã dẫn đến một loạt những hệ lụy như: nhiều KCN, KCX có số dự án
đầu tư chiếm tỷ lệ quá thấp (10-20%), sự lãng phí này là quá lớn, tình trạng
chồng chéo trong quản lý các KCN vẫn tồn tại cả ở tầm vĩ mô cũng như ở từng
địa phương (ví dụ: đất nói chung do Chính phủ duyệt quy hoạch, việc cấp đất
do tỉnh tiến hành, duyệt quy hoạch đất KCN là của Bộ Xây dựng, cấp phép
đầu tư là nhiệm vụ của Bộ Kế hoạch và Đầu tư), việc quản lý các KCN cũng
chỉ dừng ở mức cấp phép thành lập chứ chưa chú ý đến vấn đề quy hoạch, các
KCN phát triển theo hướng đa ngành dẫn đến khó khăn trong quá trình hoạt
động.
Về mặt số lượng tăng từ 145 KCN, KCX trong năm 2006 lên 179 đến cuối
năm 2007, với tổng diện tích đất tự nhiên trong năm 2007 là 42.986 hecta, trong đó
có hơn 110 KCN đã đi vào hoạt động. Các KCN đã thu hút hơn 3.000 dự án đầu tư
nước ngoài với tổng vốn gần 30 tỉ USD. Ngoài ra còn có 3.000 dự án trong nước với
tổng vốn gần 200 ngàn tỉ đồng, giải quyết việc làm cho lao động trực tiếp và có hàng
triệu lao động gián tiếp liên quan đến hoạt động của các KCN, KCX (như: vận
chuyển nguyên vật liệu, gia công hàng hóa dịch vụ ) (nguồn: Cục Đầu tư Nước ngoài
Bộ KH –ĐT). Năm 2007, Việt Nam đã thu hút được 20,3 tỷ USD vốn đầu tư nước
ngoài, tăng 69,1% so với cùng kỳ năm trước, vượt 56% kế hoạch dự kiến. Đây là kết
quả của quá trình phấn đấu sau một thời gian dài để trở thành thành viên chính thức
HVTH: Nguyễn Công Thức
Trang 11
Tiểu luận kinh tế vi mô GVHD: TS. Lê Khương Ninh
của tổ chức Thương mại thế giới. Đó cũng là kết quả của việc phân cấp mạnh mẽ về
cho các địa phương, hiện trên địa bàn cả nước có 60 địa phương đã thực hiện việc
cấp giấy phép đầu tư cho các dự án FDI theo các điều kiện phân cấp tại địa bàn.
Tuy nhiên, trong khi số KCN, KCX tăng với tốc độ 23,4% và diện tích đất
công nghiệp có thể cho thuê tăng 29,6% thì tốc độ tăng của diện tích đất công nghiệp
cho thuê tăng rất thấp chỉ đạt 5,1%. Trong đó, tỷ lệ diện tích đất công nghiệp cho
thuê năm 2007 chỉ đạt 49,9%, so với năm 2006 tỷ lệ này giảm 11,6% và thấp hơn
nhiều so với 75,6% của năm 2002. Thực trạng này đòi hỏi chúng ta cần đưa ra những
biện pháp kịp thời khắc phục khuyết điểm, nâng cao hiệu quả hoạt động của các
KCN, KCX. Xóa bỏ tình trạng cung lớn hơn cầu xảy ra ở nhiều nơi dẫn đến hiệu quả
đầu tư kém, gây ra tình trạng lãng phí tài nguyên và ngân sách.
3.2. Thực trạng ô nhiễm môi trường tại các Khu công nghiệp - Khu chế xuất ở
Việt Nam nhìn từ lý thuyết trò chơi
Việc xây dựng, phát triển các KCN, KCX là một hướng đi đúng đắn không
những tạo ra các khu kinh tế phát triển đều khắp trên cả nước, mà còn tạo nên động
lực đưa Việt Nam hướng tới mục tiêu trở thành một nước công nghiệp theo hướng
hiện đại vào năm 2020. Sự phát triển các KCN đã góp phần đáng kể vào sự chuyển
dịch cơ cấu kinh tế của các địa phương, phát huy được tiềm năng kinh tế của các
vùng, miền, tạo sự phát triển cân đối giữa các khu vực. Hơn nữa, nhiều dự án trong
các KCN (kể cả dự án có vốn nước ngoài và doanh nghiệp trong nước) có công nghệ
sản xuất hiện đại đã tạo ra những sản phẩm đạt chất lượng quốc tế, có sức cạnh tranh
ngày càng cao.
Tốc độ phát triển khá nóng của các KCN, KCX đã kéo theo nhiều tác động
tiêu cực đối với môi trường. Tại các KCN, công tác bảo vệ môi trường chưa được
thực hiện đồng bộ, nhiều KCN chưa xây dựng hệ thống xử lý nước thải tập trung.
Đến cuối năm 2007, mới chỉ có 28 KCN có nhà máy xử lý nước thải tập trung,
khoảng 20 KCN khác đang xây dựng hoặc chuẩn bị đầu tư, hầu hết số doanh nghiệp
còn lại chưa xây. Trong nhiều năm qua chúng ta chỉ chú trọng mục tiêu tăng trưởng
kinh tế, xây dựng cơ sở hạ tầng, thu hút một lượng lớn nguồn vốn đầu tư từ bên
ngoài, khai thác nguồn tài nguyên thiên nhiên xuất khẩu ra nước ngoài thu về ngoại
tệ Trong quá trình sản xuất, các doanh nghiệp đã và đang tiêu hao nhiều loại tài
nguyên, năng lượng và thải ra nhiều chất gây hại, ảnh hưởng trực tiếp đến môi
trường. Mức độ ô nhiễm nước ở các KCN, KCX, cụm công nghiệp tập trung là rất
lớn. Kết quả là trung bình hàng ngày các KCN thải ra môi trường khoảng 500.000 -
700.000m
3
chất thải, hầu hết chưa được xử lý đã làm ô nhiễm môi trường nước. Theo
HVTH: Nguyễn Công Thức
Trang 12
Tiểu luận kinh tế vi mô GVHD: TS. Lê Khương Ninh
số liệu thống kê lượng chất thải rắn công nghiệp hàng năm là 1,2 triệu tấn và khối
lượng chất thải nguy hại chiếm 175.000 tấn, nhưng việc xử lý, thu gom không đạt
50%. Chính điều này dẫn đến tình trạng ô nhiễm nặng trên nhiều con sông như: sông
Nhuệ, sông Đáy, sông Cầu, sông Đồng Nai, sông Sài Gòn, sông Thị Vải đã đến
mức báo động.
Nhưng bất kỳ một doanh nghiệp sản xuất nào khi tiến hành hoạt động sản
xuất kinh doanh, thì mục tiêu đầu tiên và quan trọng nhất đối với doanh nghiệp là tối
đa hóa lợi nhuận. Đối với một sản phẩm bất kỳ thì hệ số co giãn của cầu theo giá cho
biết mối quan hệ biến động giữa cầu và giá. Khi hệ số co giãn
D
E
<1 thì sự biến
động tăng lên hay giảm xuống của giá sản phẩm không làm sản lượng tiêu thụ sản
phẩm trên thị trường biến động (nhất là đối với những hàng hóa thiết yếu). Ngược lại,
khi hệ số co giãn của cầu theo giá
D
E
>1 thì lượng sản phẩm bán ra và giá là hai đại
lượng tỷ lệ nghịch với nhau, giá giảm thì số lượng hàng hóa bán tăng lên và ngược lại
khi giá hàng hóa tăng lên thì số lượng hàng hóa bán ra lại giảm xuống.
Điều này đã đặt các nhà quản lý doanh nghiệp phải luôn đưa ra phương pháp
sản xuất tối ưu nhằm mục đích tối thiểu hóa chi phí trong kết cấu giá thành sản phẩm,
từ đó hạ giá thành sản phẩm xuống giúp doanh nghiệp có thể tăng số lượng hàng hóa
tiêu thụ thông qua việc giảm giá bán sản phẩm và tăng sức cạnh tranh sản phẩm của
mình trên thị trường, tăng lợi nhuận. Trong đó, chi phí cho xử lý chất thải và nước
thải sau quá trình sản xuất chiếm một phần trong kết cấu giá thành. Tùy theo đặc tính
của từng sản phẩm mà chi phí này có thể cao hay thấp, để đảm bảo khả năng cạnh
tranh sản phẩm trên thị trường, các doanh nghiệp sẽ luôn tìm cách để giảm chi phí
này xuống mức càng thấp càng tốt (xét trong điều kiện các yếu tố khác xem như
không đổi), dẫn đến tình trạng nhiều doanh nghiệp không tiến hành xử lý chất thải và
nước thải sau quá trình sản xuất (gọi chung là chất thải) hay xử lý không đạt tiêu
chuẩn trước khi thải ra môi trường bên ngoài. Nhất là trong điều kiện môi trường
cạnh tranh gay gắt ngày càng nên gay gắt thì đây là một trong những yếu tố góp phần
làm giảm chi phí sản xuất, tăng khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp, đặc biệt lợi
nhuận đạt được của các doanh nghiệp là tối ưu. Nếu vấn đề quản lý xử lý chất thải,
nước thải sau quá trình của các doanh nghiệp, hay pháp luật về bảo vệ môi trường
của nước ta còn nhiều bất cập thì việc một doanh nghiệp vi phạm sẽ kéo theo nhiều
doanh nghiệp khác vi phạm (nhất là các doanh nghiệp sản xuất cùng ngành). Bởi
trong điều kiện cạnh tranh ngày càng khắc nghiệt một doanh nghiệp thực hiện theo
đúng qui định pháp luật trong khi các doanh nghiệp khác không thực hiện thì chẳng
HVTH: Nguyễn Công Thức
Trang 13
Tiểu luận kinh tế vi mô GVHD: TS. Lê Khương Ninh
khác nào doanh nghiệp đó tự mình rời bỏ cuộc chơi. Chính hiệu ứng dây chuyền này
dẫn đến hệ lụy môi trường sống ngày càng biến động theo chiều hướng xấu, mục tiêu
tăng trưởng bền vững khó có thể được đảm bảo.
Đây giống như một trò chơi mà quyết định của mỗi bên phụ thuộc vào người
chơi với mình. Từ khuôn khổ trò chơi “Nghịch lý người tù”, có thể mô phỏng thành
trò chơi hành động xử lý chất thải sau quá trình sản xuất giữa hai doanh nghiệp A và
B. Giả sử trò chơi diễn ra giữa hai doanh nghiệp sản xuất A và B cùng ngành với loại
trò chơi có thông tin đầy đủ. Dạng nhận thức của trò chơi là mỗi bên tham gia đồng
thời ra quyết định để tối ưu hóa lợi ích. Mỗi người chơi đều biết rằng đối thủ của họ
đang cố gắng để tối đa hóa lợi ích của mình. Kết quả lợi ích mỗi bên tham gia thu
được không chỉ phụ thuộc vào hành động của mình mà còn là hành động của bên
tham gia trò chơi còn lại. Quyết định có tiến hành xử lý chất thải hay không của 2
doanh nghiệp phụ thuộc vào các kết cục có thể có của trò chơi. Nếu hiện tại hai
doanh nghiệp tiến hành xử lý chất thải theo quy định, như vậy mỗi doanh nghiệp vẫn
đảm bảo khả năng cạnh tranh hiện có của mình và thu được những lợi ích trực tiếp,
gián tiếp từ quyết định này. Bảng 3.2. mô tả sự kết hợp tương ứng từng hành động
của mỗi bên tham gia.
Bảng 3.2.: Trò chơi chiến lược xử lý chất thải của hai doanh nghiệp A
và B
B
Chiến lược Không xử lý Xử lý
A Không xử lý 11,11 15,-5
Xử lý -5,15 2,2
Nếu cả hai doanh nghiệp ban đầu thõa thuận với nhau cùng lựa chọn chiến
lược xử lý, nghĩa là thực hiện xử lý chất thải sau quá trình sản xuất theo đúng quy
định, mỗi doanh nghiệp phải tốn chi phí để vận hành hệ thống xử lý làm tăng chi phí
sản xuất dẫn đến giá thành sản phẩm cũng tăng lên. Tuy nhiên do giá thành sản
phẩm của hai doanh nghiệp đều tăng lên đồng thời nên khách hàng không có xu
hướng chuyển từ tiêu dùng sản phẩm doanh nghiệp A sang tiêu dùng sản phẩm của
doanh nghiệp B. Do đó mỗi doanh nghiệp nhận được lợi ích là 2 đvt.
Nhưng nếu một trong hai doanh nghiệp phá vỡ thõa thuận thì kết quả mỗi
doanh nghiệp nhận được sẽ khác đi rất nhiều, chênh lệch lợi ích giữa doanh nghiệp
thực hiện cam kết và doanh nghiệp còn lại có sự biến động lớn. Thực vậy, nếu doanh
nghiệp A không tuân thủ thõa thuận ban đầu thì lợi ích doanh nghiệp A nhận được là
HVTH: Nguyễn Công Thức
Trang 14

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét