Thứ Tư, 19 tháng 2, 2014

Phân tích tài chính khách hàng doanh nghiệp của ngân hàng

Luận văn tốt nghiệp
toàn. Cơ sở để hình thành một khoản vay tốt phụ thuộc rất nhiều vào
việc phân tích tài chính khách hàng. Qua kết quả của phân tích tài chính,
người cho vay sẽ nắm được tình hình sản xuất kinh doanh ở hiện tại
cũng như trong quá khứ của doanh nghiệp, phân tích tài chính sẽ trả lời
cho họ những câu hỏi như khách hàng có phương án sử dụng vốn hiệu
quả không? mục đích sử dụng vốn vay có hợp lí không? khách hàng có
thể trả nợ và lãi đúng hạn hay không? ngân hàng có quyền đối với tài
sản và thu nhập của khách hàng khi khoản vay có vấn đề và ngân hàng
có thể thu hồi vốn nhanh chóng với rủi ro và chi phí thấp được không?
…Do vậy phân tích tài chính khách hàng được xem là cơ sở quan trọng
để đưa ra các quyết định trong hoạt động tín dụng của ngân hàng. Do đó
phân tích tài chính trong thẩm định tín dụng của ngân hàng thương
mại là việc đánh giá một cách khách quan, khoa học, và có hệ thống
toàn bộ tình hình tài chính doanh nghiệp trên giác độ ngân hàng,
nhằm đảm bảo tính hiệu quả của khoản vay trước khi ra quyết định
cấp tín dụng cho doanh nghiệp.
1.2.2 Mục tiêu của phân tích tài chính khách hàng trong ngân hàng
thương mại
Những người ở những vị trí khác nhau có những mục tiêu khác
nhau khi tiến hành phân tích tài chính. Mối quan tâm của từng đối
tượng cũng như quyết định của từng đối tượng chỉ phù họp và được đáp
ứng khi tiến hàng phân tích tài chính. Mục đích chính của phân tích tài
chính là giúp các đối tượng sử dụng thông tin đánh giá đúng tình hình
tài chính, khả năng sinh lãi và triển vọng của doanh nghiệp từ đó đưa ra
những quyết định phù hợp với mục tiêu mà họ quan tâm. Tuy nhiên
những báo cáo tài chính là những tài liệu mang tính chất lịch sử vì
chúng cho biết thông tin của một thời kì nhất định vì thế mục đích của
phân tích tài chính là giúp đối tượng quan tâm đưa ra quyết định và hành
động hợp lí trên cơ sở thông tin mang tính lịch sử của báo cáo tài chính.
Nguyễn Thị Thảo – TCDN 45C ĐH Kinh tế Quốc dân
5
Luận văn tốt nghiệp
Đối với nhà quản trị phân tích tài chính để nhằm đánh giá hoạt
động kinh doanh của doanh nghiệp, xác định điểm mạnh điểm yếu của
doanh nghiệp, đó là cơ sở để định hướng cho các quyết định của ban
giám đốc, giám đốc tài chính, dự báo tình hình tài chính, kế hoạch đầu
tư, ngân quĩ, và kiểm soát các hoạt động quản lí khác. Mối quan tâm
hàng đầu của nhà quản trị là tìm kiếm lợi nhuận và khả năng trả nợ để
đảm bảo khả năng tồn tại và phát triển của doanh nghiệp, ngoài ra còn
có các mục tiêu khác như tạo công ăn việc làm, nâng cao chất lượng sản
phẩm, bảo vệ môi trường… những mục tiêu này chỉ thực hiện được khi
doanh nghiệp làm ăn có lãi.
Đối với các nhà đầu tư thông qua hoạt động phân tích tài chính,
họ có thể thu thập nhưng thông tin về tình hình thu nhập của chủ sở
hữu- lợi tức cổ phần và giá trị tăng thêm của vốn đầu tư. Họ quan tâm
tới phân tích tài chính để nhận biết khả năng sinh lãi của doanh nghiệp,
rủi ro, khả năng hoàn vốn, mức tăng trưởng hiện tại và tương lai. Đó là
một trong những căn cứ giúp họ ra quyết định bỏ vốn vào doanh nghiệp
hay không.
Đối với người cho vay, cần phân tích tài chính để nhận biết khả
năng trả nợ vay của khách hàng, mà chủ yếu là tập trung xem xét luồng
tiền tạo ra của doanh nghiệp, các tài sản có khả năng chuyển đổi nhanh
thành tiền, vốn chủ sở hữu, tỉ lệ vốn nợ của doanh nghiệp để biết rằng
doanh nghiệp có khả năng thanh toán nợ và lãi đúng hạn hay không.
Thông thường, ngân hàng thường xem xét tình hình tài chính của khách
hàng để trả lời những câu hỏi quan trọng như: khách hàng có đáng tin
cậy không? liệu khoản vay có đảm bảo an toàn cho ngân hàng, khách
hàng có sử dụng vốn đúng mục đích không, liệu ngân hàng có quyền đối
với những tài sản và thu nhập của doanh nghiệp khi khoản vay có vấn
đề, liệu ngân hàng có thể thu hồi vốn và lãi với rủi ro và chi phí thấp
được không.
Nguyễn Thị Thảo – TCDN 45C ĐH Kinh tế Quốc dân
6
Luận văn tốt nghiệp
Như vậy mối quan tâm hàng đầu của người phân tích tài chính là
đánh giá khả năng xảy ra rủi ro phá sản tác động tới doanh nghiệp mà
biểu hiện của nó là khả năng thanh toán, khả năng cân đối vốn, khả năng
hoạt động cũng như khả năng sinh lãi của doanh nghiệp. Trên cơ sở đó,
các nhà phân tích tài chính tiếp tục nghiên cứu và đưa ra những dự đoán
về kết quả hoạt động nói chung và mức doanh lợi nói riêng của doanh
nghiệp trong tương lai. Nói cách khác phân tích tài chính là cơ sở để dự
đoán tài chính. Tuy nhiên phân tích tài chính có thể đước ứng dụng theo
nhiều phương cách khác nhau nhưng trình tự phân tích và dự đoán đều
phải tuân theo những nghiệp vụ phân tích thích ứng với từng giai đoạn
dự đoán.
1.1.3 Thông tin và phương pháp sử dụng trong phân tích tài chính
khách hàng
1.1.3.1 Thông tin sử dụng
Trong phân tích tài chính nhà phân tích phải thu thập, sử dụng
mọi nguồn thông tin: từ những thông tin nội bộ đến những thông tin bên
ngoài doanh nghiệp, từ những thông tin số lượng đến thông tin giá trị.
Những thông tin này đều giúp nhà phân tích có thể đưa ra những nhận
xét kết luận chi tiết và thích đáng.
Trong những thông tin bên ngoài cần chú ý tới những thông tin
chung của ngành, lĩnh vực hoạt động của doanh nghiệp như: cơ hội kinh
doanh, chính sách thuế, lãi suất, vị trí của ngành trong nền kinh tế, cơ
cấu ngành và các sản phẩm của ngành, tình trạng công nghệ, thị phần
của doanh nghiệp, các thông tin về pháp lí, kinh tế đối với doanh nghiệp
như tình hình quản lí, kế toán, kiểm toán, kế hoạch sử dụng kết quả kinh
doanh… Ngoài ra nguồn cung cấp thông tin cũng là một yếu tố quyết
định tới độ chính xác và đáng tin cậy của thông tin sử dụng phân tích tài
chính. Đối với ngân hàng nguồn thông tin có thể từ nhiều nguồn cung
cấp như: chính khách hàng cung cấp, từ cơ quan thuế, cơ quan quản lí
Nguyễn Thị Thảo – TCDN 45C ĐH Kinh tế Quốc dân
7
Luận văn tốt nghiệp
cấp trên của doanh nghiệp, thông tin từ ngân hàng nhà nước, từ các ngân
hàng khác, từ báo chí… hoặc thông tin từ chính trung tâm thông tin của
ngân hàng.
Tuy nhiên để đánh giá một cách cơ bản tình hình tài chính của
doanh nghiệp có thể sử dụng thông tin kế toán như là một nguồn thông
tin quan trọng nhất. Với tính hệ thống, đồng nhất, phong phú kế toán
hoạt động như một nhà cung cấp thông tin quan trọng và tin cậy cho
phân tích tài chính. Mặt khác doanh nghiệp cũng cần phải cung cấp
những thông tin kế toán cho các bên đối tác trong và ngoài doanh
nghiệp. Thông tin kế toán được phản ánh khá đầy đủ trong các báo cáo
kế toán. Phân tích tài chính được thực hiện trên cơ sở các báo cáo tài
chính - được hình thành thông qua việc xử lí các thông tin của kế toán
cung cấp, đó là bảng cân đối kế toán, báo cáo kết quả kinh doanh, báo
cáo lưu chuyển tiền tệ.
Bảng cân đối kế toán là một báo cáo tài chính mô tả tình hình tài
chính của doanh nghiệp tại một thời điểm nhất định nào đó. Đây là một
báo cáo tài chính có ý nghĩa rất quan trọng đối với mọi đối tượng có
quan hệ sở hữu, quan hệ kinh doanh, và quan hệ quản lí với doanh
nghiệp. Thông thường bảng cân đối kế toán được trình bày dưới dạng
bảng cân đối số dư các tài khoản kế toán: một bên phản ánh tài sản và
một bên phản ảnh nguồn vốn của doanh nghiệp.
Bên tài sản của bảng cân đối kế toán phản ánh giá trị của toàn bộ
tài sản hiện thời ở thời điểm lập báo cáo thuộc quyền quản lí và sử dụng
của doanh nghiệp đó là tài sản lưu động và tài sản cố định. Bên nguồn
vốn phản ánh số vốn để hình thành các loại tài sản ở cùng thời điểm đó
là vốn chủ sở hữu và vốn vay. Các khoản mục bên phía tài sản được sắp
xếp theo thứ tự tính thanh khoản giảm dần còn bên nguồn vốn các khoản
mục được sắp xếp theo nghĩa vụ nợ giảm dần.
Nguyễn Thị Thảo – TCDN 45C ĐH Kinh tế Quốc dân
8
Luận văn tốt nghiệp
Bên tài sản bao gồm các khoản mục Tài sản lưu động, và tài sản
cố định. Trong tài sản lưu động lại gồm: tiền mặt, các loại chứng khoán
thanh khoản, các khỏan phải thu khách hàng hoặc phải thu nhà cung
cấp, nguyên vật liệu hàng, công cụ dụng cụ dự trữ, hàng hóa trong
kho… Tài sản cố định bao gồm máy móc, nhà xưởng, thiết bị, công
nghệ, các khoản đầu tư góp vốn dài hạn, thương hiệu, bản quyền, giấy
phép …
Bên nguồn vốn có nợ phả trả: các khoản nợ ngắn hạn như nợ nhà
cung cấp, phải trả khách hàng, lương công nhân viên chưa thanh toán,
nợ ngân hàng ngắn hạn, lãi ngân hàng sắp phải trả… nợ dài hạn gồm nợ
ngân hàng, trái phiếu, kí quĩ… vốn chủ sở hữu bao gồm vốn góp ban
đầu, lợi nhuận chưa chia, các quĩ khen thưởng, phúc lợi, vốn liên doanh
liên kết…
Về mặt kinh tế, bên tài sản phản ánh qui mô và kết cấu các loại tài
sản, bên nguồn vốn phản ánh cơ cấu tài trợ, cơ cấu vốn cũng như khả
năng độc lập về tài chính của doanh nghiệp. Bên tài sản cũng như bên
nguồn vón của bảng cân đối kế toán thường đều có cột chỉ tiêu số dư
đầu kì cuối kì. Ngoài ra còn có một số chỉ tiêu ngoại bảng như: Tài sản
thuê ngoài, vật tư hàng hóa nhận giữ hộ, nhận gia công , nhận bán hộ,
ngoại tệ các loại…
Thông tin trong bảng cân đối kế toán giúp nhà phân tích nhận biết
được loại hình doanh nghiệp, qui mô, mức độ tự chủ về tài chính. Bảng
cân đối kế toán là báo cáo tài chính quan trọng bậc nhất, thông qua đó
nhà phân tích có thể tính toán đánh giá được các chỉ tiêu như khả năng
cân bằng tài chính, khả năng thanh toán, khả năng cân đối vốn.
Báo cáo kết qủa kinh doanh cũng là một tài liệu cần thiết cho hoạt
động phân tích tài chính. Báo cáo kết quả kinh doanh cho biết sự dịch
chuyển của tiền tệ trong quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp
và cho phép dự tính khả năng hoạt động của doanh nghiệp trong tương
Nguyễn Thị Thảo – TCDN 45C ĐH Kinh tế Quốc dân
9
Luận văn tốt nghiệp
lai. Báo cáo này giúp nhà phân tích so sánh doanh thu với số tiền thực tế
nhập quĩ khi bán hàng, cung cấp dịch vụ, so sánh tổng chi phí phát sinh
với số tiền thực xuất ra để vận hành doanh nghiệp. Trên cơ sở doanh thu
chi phí, có thể xác định kết quả sản xuất kinh doanh của đơn vị lãi hay
lỗ trong một giai đoạn thường tính theo tháng, quí, năm. Khác với bảng
cân đối kế toán cho biết số liệu thời điểm, báo cáo kết quả kinh doanh
phản ánh kết quả kinh doanh trong cả một giai đoạn, thời kì nhất định.
Nó cung cấp những thông tin tổng hợp về tình hình và kết quả sử dụng
các yếu tố đầu vào như: nhân công, nguyên vật liệu, kĩ thuật, trình độ
quản lí sản xuất kinh doanh của bản thân doanh nghiệp.
Các khoản mục chủ yếu của báo cáo kết quả kinh doanh thường
là: doanh thu từ hoạt động sản xuất kinh doanh chính, doanh thu từ hoạt
động tài chính, doanh thu từ hoạt động bất thường, chi phí tương ứng
với những hoạt động đó, tình hình nghĩa vụ phải thực hiện với nhà nước,
lợi nhuận trước thuế, lợi nhuận sau thuế…
Để đánh giá một doanh nghiệp có khả năng chi trả hay không, nhà
phân tích tài chính cần tìm hiểu tình hình ngân quĩ của doanh nghiệp.
Ngân quĩ thường được xác định cho khoảng thời gian ngắn thường là
hàng tháng. Bao gồm dòng tiền thực nhập quĩ từ hoạt động sản xuất
kinh doanh hàng hóa dịch vụ, dòng tiền nhập quĩ từ các hoạt động tài
chính, đầu tư, hoạt động bất thường khác, dòng tiền thực xuất quĩ để
thực hiện hoạt động sản xuất kinh doanh, thực hiện hoạt động đầu tư, tài
chính, hoạt động bất thường.
Trên cơ sở dòng tiền xuất và nhập có thể dự báo cho nhu cầu
trong thời gian tới của doanh nghiệp, cũng từ đó có thể thực hiện cân đối
ngân quĩ với số dư ngân quĩ đầu kì để xác định số dư ngân quĩ cuối kì.
Từ đó lập mức dự phòng tối thiểu cho doanh nghiệp nhằm mục tiêu đảm
bảo khả năng chi trả cho doanh nghiệp.
Nguyễn Thị Thảo – TCDN 45C ĐH Kinh tế Quốc dân
10
Luận văn tốt nghiệp
Như vậy để thực hiện phân tích tài chính doanh nghiệp các nhà
phân tích cần phải đọc và hiểu được các báo cáo tài chính, thông qua đó
họ nhận biết được và tập trung vào các chỉ tiêu tài chính có liên quan
trực tiếp tới mục đích mà họ hướng tới. Đối với hoạt động phân tích tài
chính khách hàng doanh nghiệp trong ngân hàng thương mại mục đích
chính của ngân hàng là tìm hiểu về tình hình sản xuất kinh doanh của
doanh nghiệp, khả năng chi trả, diễn biến của dòng tiền xuất quĩ nhập
quĩ, khả năng tạo ra lợi nhuận của doanh nghiệp. Vì thế phân tích tài
chính cần sử dụng thông tin đa dạng, từ nhiều nguồn, không chỉ là
những báo cáo tài chính, mà còn có cả những thông tin khác có liên
quan như tình hình quan hệ tín dụng của doanh nghiệp đối với tất cả các
tổ chức tín dụng, với bạn hàng, khách hàng của doanh nghiệp, ngoài ra
còn có những thông tin chung về hiện trạng và xu hướng phát triển của
ngành nghề, lĩnh vực, sản phẩm mà doanh nghiệp đang tham gia hoạt
động.
Vì yêu cầu của việc phân tích, nhân viên tín dụng không thể sử
dụng những thông tin đơn thuần từ các báo cáo tài chính. Để hiểu thật kĩ
hoạt động của khách hàng, có khi cần phải sử dụng số liệu chi tiết. Như
tìm hiểu những khoản phải thu, phải trả của chi tiết từng đối tác của
khách hàng, nhờ đó mà nhân viên tín dụng mới có thể tìm hiểu tập quán
bán hàng cũng như mua hàng của doanh nghiệp. Chính sách bán hàng
trả chậm của doanh nghiệp có thể có số ngày ít hơn hoặc lâu hơn so với
hóa đơn, hợp đồng kinh tế, những điều này nhân viên tín dụng chỉ có thể
tìm hiểu thông qua việc đi thực tế, xem chi tiết các tiểu khoản.
1.1.3.2 Phương pháp sử dụng trong phân tích tài chính khách hàng
Phương pháp truyền thống được sử dụng trong phân tích tài chính
đó là phương pháp tỉ số, trong đó các tỉ số được thiết lập từ việc so sánh
chỉ tiêu này so sánh với chỉ tiêu khác. Đây là phương pháp ngày càng
được sử dụng nhiều bởi tính hiện thực của nó, các điều kiện áp dụng
Nguyễn Thị Thảo – TCDN 45C ĐH Kinh tế Quốc dân
11
Luận văn tốt nghiệp
ngày càng được bổ sung và hoàn thiện. nguồn thông tin kế toán ngày
càng được bổ sung và hoàn thiện, cải tiến và được cung câp ngày một
đầy đủ hơn. Đây là cơ sở để hình thành những tỉ lệ tham chiếu tin cậy
cho việc đánh giá một tỉ số của một doanh nghiệp hay một nhóm doanh
nghiệp. Việc áp dụng công nghệ thông tin cho phép tích lũy dữ liệu và
thúc đẩy nhanh chóng quá trình tính toán hàng loạt các chỉ số, hơn thế
nữa phương pháp này giúp người phân tích khai thác sử dụng triệt để
những số liệu và phân tích một cách hệ thống hàng loạt tỉ số theo thời
gian liên tục hoặc theo từng giai đoạn cụ thể.
Khi sử dụng phương pháp này cần phải có một ngưỡng để tham
chiếu so sánh, đánh giá các tỉ số đãt tính toán được. Để đánh giá so sánh
tình hình tài chính của doanh nghiệp cần so sánh các tỉ số của doanh
nghiệp với tỉ số tham chiếu chung của toàn ngành hoặc so sánh với các
doanh nghiệp có cùng qui mô hoặc lĩnh vực sản xuất kinh doanh.
Phương pháp nàythường được sử dụng cùng với các phương pháp phân
tích tài chính khác. Khi phân tích nhà phân tích thường so sánh các chỉ
tiêu theo thời gian, kì này so với kì trước để nhận biết được xu hướng
thay đổi của tình hình tài chính doanh nghiệp, hoặc theo không gian so
sánh doanh nghiệp với mức trung bình ngành để đánh giá vị thế của
doanh nghiệp trong ngành.
Bên cạnh đó phương pháp phân tích tài chính Doupont cũng
thường được sử dụng. với phương pháp này các nhà phân tích tách một
tỉ số tổng hợp phản ánh sức sinh lợi của doanh nghiệp như tỉ suất thu
nhập trên tài sản( ROA), thu nhập sau thuế trên vốn chủ sở hữu( ROE)
thành tích của một chuỗi các tỉ số có mối quan hệ nhân quả với nhau.
Điều đó cho phép nhà phân tích thấy được sự ảnh hưởng của các tỉ số đó
với tỉ số tổng hợp. từ đó nhà phân tích sẽ nhận biết được nguyên nhân
của những hiện tượng, diễn biến trong hoạt động của doanh nghiệp.
Nguyễn Thị Thảo – TCDN 45C ĐH Kinh tế Quốc dân
12
Luận văn tốt nghiệp
1.1.4 Nội dung phân tích tài chính khách hàng
1.1.4.1 Phân tích các tỉ lệ tài chính
Thông tin từ các bảng cân đối kế toán và báo cáo thu nhập của
doanh nghiệp thường được bổ sung bằng việc phân tích các chỉ số tài
chính, cán bộ tín dụng sẽ lựa chọn những thông tin từ những báo cáo tài
chính mà khách hàng đã cung cấp để từ đó phân tích, tìm hiểu những
vấn đề có ảnh hưởng quan trọng tới tình hình sản xuất kinh doanh của
doanh nghiệp như khả năng kiểm soát chi phí của doanh nghiệp, mức độ
hoạt động hiệu quả của doanh nghiệp trong việc tận dụng các nguồn lực
để tạo ra doanh thu và các luồn tiền, khả năng tiêu thụ sản phẩm, khả
năng trang trải các chi phí tài chính, khả năng thanh toán nợ vay, tình
hình biến động về khả năng sinh lời và thu nhập theo thời gian, qui mô
nợ hay nợ so với vốn chủ của doanh nghiệp, và liệu trong tương lai
doanh nghiệp có phải đối mặt với những khoản phải trả bất thường làm
tăng nhu cầu thanh toán của doanh nghiệp trong tương lai hay không.
Các chỉ tiêu tài chính thường được sử dụng để đo lường khả năng
kiểm soát chi phí của doanh nghiệp bao gồm:
Tiền công và tiền lương / Doanh thu thuần
Chi phí quản lí và bán hàng/ Doanh thu thuần
Khấu hao/Doanh thu thuần
Chi phí trả lãi tiền vay/Doanh thu thuần
Giá vốn hàng bán/ Doanh thu thuần
Những chỉ tiêu này được sử dụng để xem xét những chi phí và tỉ
lệ của chúng trên doanh thu thuần mà doanh nghiệp phải đã chi ra trong
quá trình sản xuất kinh doanh. Những tỉ lệ chi phí này phản ảnh phần
nào chất lượng cũng như năng lực quản lí của chủ doanh nghiệp, có thể
so sánh những chỉ tiêu này với tỉ lệ trung bình toàn ngành để biết được
vị thế cũng như năng lực của doanh nghiệp trên thị trường. Với một
doanh nghiệp có chi phí cho quản lí bán hàng, giá vốn hàng bán cao hơn
Nguyễn Thị Thảo – TCDN 45C ĐH Kinh tế Quốc dân
13
Luận văn tốt nghiệp
mức trung bình ngành trong nhiều năm thì có thể nói doanh nghiệp này
khó có ưu thế cạnh tranh trong việc giảm chi phí sản xuất so với các đối
thủ cạnh tranh khác. Chi phí trả lãi tiền vay cũng cho biết tình hình thực
hiện nghĩa vụ nợ của doanh nghiệp trong thời gian qua là bao nhiêu, và
liệu doanh nghiệp có còn đủ năng lực nếu vay thêm vốn nữa không. Nếu
doanh nghiệp có chi phí giảm qua từng năm với sự ổn định hoặc tăng
trưởng của doanh thu chứng tỏ doanh nghiệp có thể thuyết phục được
ngân hàng về triển vọng thu nhập trong tương lai. Thông qua những chi
phí chi cho quản lí, bán hàng, trả lương cho công nhân viên có thể nắm
được chính sách nhân sự, chính sách marketing của doanh nghiệp, và
hiệu quả của những chính sách đó tới việc tăng doanh thu. Phương pháp
tính khấu hao của cũng ảnh hưởng tới việc sử dụng tài sản cố định, phân
bổ chi phí hợp lí, điều này cũng phản ánh một phần năng lực quản lí
điều hành của đội ngũ quản lí doanh nghiệp.
Xem xét kết quả hoạt động của doanh nghiệp là một việc làm rất
cần thiết đối với ngân hàng, doanh nghiệp đã sử dụng như thế nào trong
việc tạo ra doanh thu, luồng tiền mặt và quá trình doanh thu được
chuyển thành tiền mặt được tiến hành như thế nào. Các tỉ lệ thường
được sử dụng là:
Vòng quay dự trữ
Hiệu suất sử dụng tài sản cố định
Hiệu suất sử dụng tổng tài sản
Kì thu nợ trung bình
Vòng quay tiền
Các chỉ số hoạt động được dùng để đánh giá hiệu quả sử dụng tài
sản của doanh nghiệp, vốn của doanh nghiệp được sử dụng để đầu tư
cho các loại tài sản khác nhau như tài sản cố định, tài sản lưu động. Do
đó nhà phân tích không chỉ quan tâm tới việc đo lường hiệu quả sử
dụng tổng tài sản mà còn chú trọng tới hiệu quả sử dụng của từng bộ
Nguyễn Thị Thảo – TCDN 45C ĐH Kinh tế Quốc dân
14

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét