Thứ Ba, 18 tháng 2, 2014

MÔI TRƯỜNG KINH DOANH VIỆT NAM THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP

Điều được thừa nhận rộng rãi là môi trường kinh doanh ở nước ta đã
có những bước tiến lớn về phía trước theo hướng phù hợp hơn với đòi hỏi của
thực tế và thông lệ quốc tế.Tuy nhiên nếu so với yêu cầu của cuôc sống , môi
trường pháp lý ở nước ta vẫn còn nhiều bất cập như các thể chế kinh tế thị
trường chưa được xây dựng hoàn chỉnh và đồng bộ, nhiều bộ luật cơ bản như
luật cạnh tranh và kiểm soát độc quyền vv còn chậm được ban hành, chưa
đủ minh bạch, thiếu sự ổn định cần thiết, tính nhất quán chưa cao và khó tiên
liệu được. Đặc biệt là còn nhiều văn bản quy phạm pháp luật được xây dựng
và ban hành chưa sát hợp với đòi hỏi và điều kiện thực tiễn, không xuất phát
từ quan điểm phục vụ và hỗ trợ hoạt động của các doanh nghiêp hoặc mang
tính chủ quan của mọt bộ phận cán bộ , cơ quan quản lí nhà nước.Bên cạnh
đó, giữa các qui dịnh luật pháp ghi trên giấy và tổ chức thực hiện trên thực tế
còn khoảng cách khá xa lạ do nhiều nguyên nhân khác nhau.
*)Thứ nhất,các qui định luật pháp còn thiéu sự động bộ, còn chứa đựng
những yếu tố chưa sát hợp thực tiễn.
*)Thứ hai, tổ chức thực hiện chưa triệt để và nghiêm minh.
*)Thứ ba, tiêu cực tham nhũng trong bộ máy nhà nước chậm được đẩy
lùi .Đây là một trong những nguyên nhân chủ yếu làm cho các qui định pháp
luật bị bóp méo, sai lệch trong qua trình áp dụng để nhũng nhiễu trục lợi.
Trong một môi trường pháp lí như vậy, hoạt động kinh doanh luôn gặp nhiều
khó khăn, tăng thêm các loại chi phí không đáng có và cuối cùng làm giảm
hiệu quả và khả năng cạnh tranh của hàng hóa và doanh nghiệp.
4.Văn hoá-xã hội
Mặc dù đã có những tiến bộ và cải thiện đáng kể trong những năm gần
đây, nhưng nhìn chung thể chế văn hóa kinh doanh chưa được thiết lập đầy
đủ, trình độ văn hóa kinh doanh chưa cao, đặc biệt là những nhà cung ứng
dịch vụ còn thiếu và yếu, chưa có tính chuyên nghiệp cao, kỉ luật thực hiện
hợp đồng kinh tế chưa nghiêm, dẫn đến tình trangj nợ đọng, nợ lòng vòng
5
giữa các doanh nghiệp còn ở mức độ lớn. Tình trạng làm hang nhái , hang giả,
xâm hại quyền sở hữu trí tuệ và sở hữu công nghiệp còn nhiều.
5. Khoa học công nghệ
Theo số liệu của Liên hiệp các Hội khoa học - kỹ thuật Việt Nam, cả
nước hiện có khoảng 1.200 tổ chức nghiên cứu khoa học và công nghệ, so
năm 1995 tăng gần 2,5 lần.
Khoảng 60% tổ chức nói trên thuộc các cơ quan, đơn vị Nhà nước. Ðó là
một tiềm năng chất xám đáng kể, một đối tác quan trọng của các doanh
nghiệp, để hợp tác cùng nhau phát triển thị trường khoa học - công nghệ trước
mắt và lâu dài.
Tuy nhiên, thị trường công nghệ ở ta mới được khởi động, mới thu hút
một số ít ỏi các tổ chức khoa học và công nghệ tham gia. Bằng chứng dễ thấy
nhất, là ở các Chợ công nghệ - thiết bị được tổ chức từ vài năm nay, nhằm
kích thích cả nhu cầu của các doanh nghiệp đi "săn" hàng chất xám lẫn giới
nghiên cứu đi chào hàng chất xám của mình, thì hầu như chưa thấy có các
giao dịch, thậm chí chưa thấy bày hàng chất xám.
Cho nên các doanh nghiệp vào chợ, chủ yếu là để mua bán máy móc,
thiết bị mới, mà chưa tìm kiếm các bản quyền sáng chế, hoặc tìm gặp các nhà
nghiên cứu để đặt hàng là hợp đồng nghiên cứu và triển khai. Khá đông các
nhà khoa học, công nghệ vào chợ, chủ yếu mới chỉ để "xem cho biết". Trong
khi đó, các đối tác nước ngoài tranh thủ cơ hội này để nắm bắt nhu cầu hàng
chất xám của các doanh nghiệp ta.
Nhà nước đã có chủ trương và các chính sách bước đầu nhằm mở đường
cho giới nghiên cứu gắn mình với thực tiễn đời sống rộng lớn, sôi động với
những bước phát triển ngày càng nhanh, để từng bước tự trang trải hoặc tiến
đến mô hình doanh nghiệp chất xám. Giới khoa học, công nghệ hoan nghênh,
nhưng chuyển biến còn chưa mạnh.
6
Tới nay, ở hầu hết các tổ chức khoa học, công nghệ nhà nước, số đề tài
nghiên cứu sát với nhu cầu thực tiễn hiện vẫn ít hơn nhiều và gặp trở ngại do
thiếu vốn để thực hiện, so với đề tài được giao và được Nhà nước cấp kinh
phí. Nhiều tổ chức khoa học, công nghệ chưa chủ động, xông xáo đi tìm kiếm,
gõ cửa các doanh nghiệp để tìm các hợp đồng nghiên cứu hiệu quả. Ngay cả
việc quảng bá, chào hàng, kêu gọi các giao dịch từ đối tác bằng nhiều cách
thức, trên báo chí, trên mạng internet, thì giới khoa học, công nghệ ta cũng
chưa làm được là bao.
Chúng ta đều hiểu rằng nền kinh tế nước ta chỉ có thể tăng trưởng nhanh,
bền vững, với các sản phẩm có sức cạnh tranh trên thị trường thế giới, khi thị
trường khoa học, công nghệ phát triển cân đối với các loại hình thị trường
khác như thị trường tài chính, thị trường bất động sản, thị trường dịch vụ, v.v.
Ðể kích hoạt thị trường này, thiết nghĩ vai trò hoạch định chính sách,
điều tiết thị trường của Nhà nước là rất quan trọng. Nhà nước đã cho phép lập
Quỹ phát triển khoa học và công nghệ, nên xúc tiến đưa quỹ vào hoạt động,
bảo đảm sử dụng quỹ một cách công khai, đầu tư có chọn lọc, đúng việc,
đúng đối tượng, có hiệu quả thật sự, với sự quản lý quỹ chặt chẽ, có đánh giá
định kỳ về hiệu quả dùng quỹ. Nhiều chuyên gia cho rằng trước mắt nên ưu
tiên sử dụng quỹ này hỗ trợ cho việc đổi mới công nghệ, sáng tạo các sản
phẩm công nghệ mà các lĩnh vực kinh tế nước ta có nhu cầu cấp thiết
Chính sách khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư cho công việc nghiên
cứu - triển khai, và được quyền hợp tác đổi mới công nghệ với các tổ chức
nghiên cứu ở trong nước và nước ngoài (Nghị định 119 của Chính phủ) trên
thực tế quả đã tăng sức thúc đẩy các doanh nghiệp đầu tư đổi mới công nghệ.
Tuy nhiên, nếu từng người, từng tổ chức khoa học, công nghệ tự đổi mới,
thích ứng nhanh với kiểu cách tổ chức, quản lý cũng như tác phong nghiên
cứu gắn với thị trường, nhanh nhạy nắm bắt nhu cầu thị trường mà tìm kiếm
hợp đồng hoặc nguồn tài trợ mà nghiên cứu có hiệu quả thật sự, vẫn là quan
7
trọng nhất. Danh tiếng, thu nhập cao của một tổ chức cũng như của cá nhân
các nhà khoa học, công nghệ có được, sẽ do hiệu quả kinh tế mà sáng tạo của
mình đem lại.
6. Địa lí
Về vị trí địa lí, Nước Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Việt Nam là một dải đất
hình chữ S, nằm ở trung tâm khu vực Đông Nam Á, ở phía đông bán đảo
Đông Dương, phía bắc giáp Trung Quốc, phía tây giáp Lào, Campuchia, phía
đông nam trông ra biển Đông và Thái Bình Dương. Bờ biển Việt Nam dài 3
260 km, biên giới đất liền dài 4 510 km. Trên đất liền, từ điểm cực Bắc đến
điểm cực Nam (theo đường chim bay) dài 1 650km, từ điểm cực Đông sang
điểm cực Tây nơi rộng nhất 600km (Bắc bộ), 400 km (Nam bộ), nơi hẹp nhất
50km (Quảng Bình).
Kinh tuyến: 102º 08' - 109º 28' đông
Vĩ tuyến: 8º 02' - 23º 23' bắc
Việt Nam là đầu mối giao thông từ Ấn Độ Dương sang Thái Bình Dương.
Về Tài nguyên Việt Nam có nguồn tài nguyên phong phú như: tài nguyên
rừng, tài nguyên thủy hải sản, tài nguyên nước, tài nguyên khoáng sản và tài
nguyên du lịch.
Tài nguyên rừng
Rừng của Việt Nam có nhiều loại cây gỗ quý như: đinh, lim, sến, táu,
cẩm lai, gụ, trắc, pơ mu Tính chung, các loài thực vật bậc cao có tới 12.000
loài. Cây dược liệu có tới 1.500 loài. Lâm sản khác có nấm hương, nấm linh
chi, mộc nhĩ, mật ong Về động vật, ước tính ở Việt Nam có 1.000 loài chim,
300 loài thú, 300 loài bò sát và ếch nhái, chưa kể các loài côn trùng. Ngoài
những loài động vật thường gặp như hươu, nai, sơn dương, gấu, khỉ còn có
những loài quý hiếm như tê giác, hổ, voi, bò rừng, sao la, công, trĩ, gà lôi đỏ
Rừng của Việt Nam hiện đang bị thu hẹp diện tích, nhất là rừng nguyên
sinh. Nhiều loài thực vật, động vật quý hiếm đang bị khai thác, săn bắn lén
8
nên gỗ và chim thú ngày càng cạn kiệt, nhiều loài thú quí đang đứng trước
nguy cơ tuyệt chủng.
Tài nguyên thuỷ hải sản
Diện tích mặt nước kể cả nước ngọt, nước lợ và nước mặn là nguồn tài
nguyên phong phú về tôm, cá trong đó có rất nhiều loài quý hiếm. Chỉ tính
riêng ở biển đã có 6.845 loài động vật, trong đó có 2.038 loài cá, 300 loài cua,
300 loài trai ốc, 75 loài tôm, 7 loài mực, 653 loài rong biển Nhiều loài cá
thịt ngon, giá trị dinh dưỡng cao như cá chim, cá thu, mực Có những loài
thân mềm ngon và quý như hải sâm, sò, sò huyết, trai ngọc
Biển Việt Nam cũng là tiềm năng khai thác muối phục vụ sinh hoạt, công
nghiệp và xuất khẩu.
Tài nguyên nước
Việt Nam được xếp vào hàng những quốc gia có nguồn nước dồi dào.
Diện tích mặt nước lớn và phân bố đều ở các vùng. Sông suối, hồ đầm, kênh
rạch, biển chính là tiền đề cho việc phát triển giao thông thuỷ; thuỷ điện;
cung cấp nước cho trồng trọt, sinh hoạt và đời sống
Hệ thống suối nước nóng và nước khoáng, nước ngầm cũng rất phong
phú và phân bố khá đều trong cả nước.
Tài nguyên khoáng sản
Việt Nam có nguồn tài nguyên khoáng sản đa dạng: than (trữ lượng dự
báo khoảng trên 6 tỉ tấn); dầu khí (ước trữ lượng dầu mỏ khoảng 3-4 tỷ thùng
và khí đốt khoảng 50-70 tỷ mét khối); U-ra-ni (trữ lượng dự báo khoảng 200-
300 nghìn tấn, hàm lượng U
3
O
8
trung bình là 0,1%); kim loại đen (sắt, măng
gan, titan); kim loại màu (nhôm, đồng, vàng, thiếc, chì ); khoáng sản phi kim
loại (apatit, pyrit ).
Tài nguyên du lịch
Việt Nam là đất nước thuộc vùng nhiệt đới, bốn mùa xanh tươi. Địa hình
có núi, có rừng, có sông, có biển, có đồng bằng và có cả cao nguyên. Núi non
9
đã tạo nên những vùng cao có khí hậu rất gần với ôn đới, nhiều hang động,
ghềnh thác, đầm phá, nhiều điểm nghỉ dưỡng và danh lam thắng cảnh như: Sa
Pa (Lào Cai), Tam Đảo (Vĩnh Phúc), Đà Lạt (Lâm Đồng), núi Bà Đen (Tây
Ninh) ; động Tam Thanh (Lạng Sơn), động Từ Thức (Thanh Hoá), Di sản
thiên nhiên thế giới Phong Nha - Kẻ Bàng (Quảng Bình) ; thác Bản Giốc
(Cao Bằng), hồ Ba Bể (Bắc Kạn), hồ thuỷ điện Sông Đà (Hoà Bình - Sơn La),
hồ thuỷ điện Trị An (Đồng Nai), hồ thuỷ điện Yaly (Tây Nguyên), hồ Thác Bà
(Yên Bái), vịnh Hạ Long (Quảng Ninh, đã hai lần được UNESCO công nhận
là di sản của thế giới), Côn Đảo (Bà Rịa - Vũng Tàu), đảo Phú Quốc (Kiên
Giang) Với 3.260 km bờ biển có 125 bãi biển, trong đó có 16 bãi tắm đẹp
nổi tiếng như: Trà Cổ, Bãi Cháy (Quảng Ninh), Đồ Sơn (Hải Phòng), Sầm
Sơn (Thanh Hoá), Cửa Lò (Nghệ An), Lăng Cô (Thừa Thiên Huế), Non Nước
(Đà Nẵng), Nha Trang (Khánh Hoà), Vũng Tàu (Bà Rịa - Vũng Tàu)
Với hàng nghìn năm lịch sử, Việt Nam có trên bảy nghìn di tích (trong
đó khoảng 2.500 di tích được nhà nước xếp hạng bảo vệ) lịch sử, văn hoá, dấu
ấn của quá trình dựng nước và giữ nước, như đền Hùng, Cổ Loa, Văn Miếu
Đặc biệt quần thể di tích cố đô Huế, phố cổ Hội An và khu đền tháp Mỹ Sơn
đã được UNESCO công nhận là Di sản Văn hoá Thế giới. Hàng nghìn đền,
chùa, nhà thờ, các công trình xây dựng, các tác phẩm nghệ thuật - văn hoá
khác nằm rải rác ở khắp các địa phương trong cả nước là những điểm tham
quan du lịch đầy hấp dẫn.
Với tiềm năng du lịch phong phú, đa dạng, độc đáo như thế, mặc dù còn
nhiều khó khăn trong việc khai thác, những năm gần đây ngành Du lịch Việt
Nam cũng đã thu hút hàng triệu khách du lịch trong và ngoài nước, góp phần
đáng kể cho nền kinh tế quốc dân. Hơn thế, bằng tiềm năng và sản phẩm du
lịch của mình, ngành Du lịch đang tạo điều kiện tốt cho bè bạn khắp năm
châu ngày càng hiểu biết và yêu mến đất nước Việt Nam.
10
Nguồn suối nước khoáng cũng rất phong phú như: suối khoáng Quang
Hanh (Quảng Ninh), suối khoáng Hội Vân (Bình Định), suối khoáng Vĩnh
Hảo (Bình Thuận), suối khoáng Dục Mỹ (Nha Trang), suối khoáng Kim Bôi
(Hoà Bình)
Về ô nhiễm không khí, theo kết quả nghiên cứu cho thấy, chất lượng
không khí ở những khu vực xa thành phố và khu công nghiệp còn trong sạch,
các chỉ tiêu chất lượng không khí còn ở dưới giới hạn cho phép. Trong khí đó,
chất lượng không khí tại các khu công nghiệp và một số thành phố đã giảm
sút, nhiều nơi bị ô nhiễm một cách nghiêm trọng, nhiều chỉ tiêu chất lượng,
nồng độ vượt qua giới hạn cho phép. Ngay tại thủ đô Hà Nội, nồng độ bụi từ
2,1 đến 45,8mg/m
3
, gấp từ 4 đến 90 lần giới hạn cho phép (0,5mg/cm
3
). Tại
Bắc Giang, nồng độ bụi cũng vượt quá giới hạn cho phép từ 2 đến 40 lần (từ
1-19mg/cm
3
). Việt Tri là nới ít bụi hơn hai địa phương trên nhưng nồng độ bụi
lúc cao nhất cũng vượt giới hạn cho phép tơí 24 lần (0,4 đến 11,9 mg/cm
3
).
Nếu giới hạn cho phép về nồng độ NH
3
trong không khí là 0,0002 mg/cm
3
thì
nồng độ NH
3
tại Hà Nội cũng từ 0,002 đến 0,05mg/cm
3
, tại Việt Trì từ 0,001
đến 0,034 mg/cm
3
, còn tại Bắc Giang tối đa là 0,0017 mg/cm
3
. Trong 3 địa
điểm nói trên, chỉ có nồng độ SO
2
là ở mức dưới giới hạn cho phép. Không
phải chỉ hoạt động công nghiệp mới làm ô nhiễm không khí do các chất thải,
hoạt động nông nghiệp cũng góp phần gây ô nhiễm môi trường khí do phát
thải các khí NH
3
, CH
4
từ phân hữu cơ, nhất là phân động vật, N
2
O và NO từ
phân đạm, CO
2
và các chất khí độc khác do đốt các sản phẩm sinh học, phế
thải nông nghiệp, đốt phá rừng làm nương rẫy. Hóa chất là một trong những
ngành công nghiệp thải ra nhiều chất độc hại vào cả các môi trường đất, nước
và không khí, trực tiếp ảnh hưởng đến điều kiện làm việc của công nhân. Hàm
lượng chất độc hại trong không khí khu vực sản xuất của các cơ sở sản xuất
hóa chất thường vượt rất xa tiêu chuẩn qui định. Ngành công nghiệp dệt
chiếm 65% giá trị tổng sản lượng của ngành công nghiệp nhẹ, công nghệ gồm
11
kéo sợi, dệt, nhuộm. Trong công đoạn tẩy trắng hầu hết đều dùng clo hoặc các
hợp chất của clo. Nước thải sau khi nhuộm có thành phần gồm clo, sulfat,
nitrat, các acid HCl, H
2
SO
4
và xút. Trong sản xuất, lượng nước thải khoảng
0,13m
3
cho một mét vải. Nồng độ bụi của các nhà máy thuộc ngành dệt cũng
khá lớn, tức là cao gấp 2 hoặc 3 lần giới hạn cho phép. Ngành công nghiệp
vật liệu xây dựng, sản xuất xi mǎng, gạch, vôi, sứ là chủ yếu. Trong ngành
này, ô nhiễm chủ yếu là bụi và khói do nhiên liệu cháy và do nguyên liệu khi
nung nóng phát ra, nồng độ bụi cao hơn định mức cho phép từ 32 đến 111 lần.
Nồng độ bụi trong các xí nghiệp gạch cũng khá cao, cũng có nồng độ bụi cao
hơn tiêu chuẩn từ 2 đến 64 lần. Trong công nghiệp sứ, xí nghiệp sứ cũng có
nồng độ bụi cao hơn tiêu chuẩn cho phép từ 63 đến 327 lần.
Ngày nay môi trường tự nhiên ngày càng có tác động chi phối mạnh hơn
tới môi trường kinh doanh của các doanh nghiệp. Qủa vậy, nếu môi trường bị
ô nhiẽm nặng thì chi phí kinh doanh sẽ cao, sự phát triển của doanh nghiệp sẽ
kém bền vững và điều quan trọng là các sản phẩm làm ra trong một môi
trường như vậy sẽ ít được chấp nhận và kém tính cạnh tranh, nhất là trên thị
trường khu vực và thế giới. Điều đáng lo ngại là môi trường ở nước ta đang
có xu hướng suy thoái ngày càng nhiều hơn với phạm vi rộng lớn hơn nhưng
công tác bảo vệ môi trường còn bất cập cả về nhận thức lẫn trong hành động
thực tế.
7.Khách hàng
Chính từ việc tăng thu nhập bình quân đầu người và sự phát triển của
xã hội, từ năm 2000, doanh số các mặt hàng quần áo, giầy dép và mỹ phẩm
tăng với tốc độ bình quân từ 11% tăng lên 14% mỗi năm. Trong lĩnh vực hàng
điện tử gia dụng, thị trường tiềm năng cho các sản phẩm giá cao như ô tô, tủ
lạnh, máy giặt hiện rất lớn bởi mới chỉ 15% dân số Việt Nam có các sản phẩm
này, tốc độ tăng trưởng doanh số của các mặt hàng rất khác nhau, doanh số
TV chỉ tăng có 6% mỗi năm, trong khi doanh số máy giặt lại tăng tới
12
11%/năm. Các sản phẩm dược phẩm cũng đạt tăng trưởng doanh thu bình
quân hàng năm 13% kể từ năm 2000. Nhóm ngành hàng tiêu dùng nhanh như
các sản phẩm sữa, nước hoa quả, đồ hộp có tốc độ tăng trưởng mạnh và
đứng đầu doanh số bán lẻ. Ngoài thực phẩm, nhóm hàng có tốc độ tăng
trưởng cao nhất là sản phẩm chăm sóc cá nhân và đồ gia dụng.
8. Cạnh tranh
Các DN VN còn rất yếu về nội lực, không những yếu về tài chính mà
còn non về kinh nghiệm và tính chuyên nghiệp. Hầu hết nguồn nhân lực hoạt
động trong các lĩnh vực kinh tế chưa có trình độ cao. Việc quảng bá hình ảnh
DN còn đơn giản, sơ khai và không hiệu quả. Yếu kém trong quy trình sản
xuất (như: năng suất lao động thấp, chất lượng và vệ sinh an toàn thực phẩm
chưa cao); Chi phí ngoài sổ sách lớn; Thiếu sự liên kết giữa các DN trong
nước để xây dựng một thị trường bán lẻ văn minh.
Việc tổ chức và cung ứng hàng hóa của các hãng phân phối còn phụ
thuộc rất nhiều vào các nhà sản xuất. Các nhà sản xuất và nhà phân phối vẫn
chưa tìm ra tiếng nói chung. Do không có định hướng hợp tác lâu dài mà chỉ
vì lợi ích trước mắt, không lường trước thiệt hại nên các nhà sản xuất thường
xuyên hủy bỏ hợp đồng khi thị trường có dấu hiệu biến động, dẫn đến nguồn
hàng trong các hệ thống phân phối bị bấp bênh, không ổn định.
Sự liên kết giữa các doanh nghiệp VN còn rất rời rạc, yếu kém. Hầu hết
những liên kết đang tồn tại hiện nay chỉ chạy theo số lượng, hình thức, chứ
chưa chú ý về mặt chất lượng. Điều này dẫn đến việc thiếu minh bạch và cạnh
tranh không bình đẳng trên thị trường.
Một điểm khác biệt cơ bản khác giữa những doanh nghiệp nước ngoài
so với đa số các doanh nghiệp vừa và nhỏ của Việt Nam là các doanh nghiệp
nước ngoài vào thị trường Việt Nam với một chiến lược trung, dài hạn. Ngay
từ đầu họ đã sẵng sàng bỏ ra một ngân sách đầu tư cần thiết, và thậm chí sẵn
sàng chấp nhận lỗ từ 3-5 năm đầu tiên để thâm nhập thị trường và chiếm thị
13
phần đa số. Trong khi các doanh nghiệp Việt Nam thường được cho là thiếu
tầm nhìn chiến lược, bị hạn chế bởi khả năng quản trị và trình độ chuyên môn,
họ không đủ sự tự tin và trình độ chuyên môn để đánh giá xu hướng, cũng
như tiềm năng của thị trường để mà có thể vạch ra một chiến lược lâu dài cho
doanh nghiệp của mình.
Khả năng tài chính hạn hẹp,năng lực tổ chức, quản lí hạn chế cũng là
những điểm hạn chế cơ bản của các doanh nghiệp vừa và nhỏ của Việt Nam.
Điểm hạn chế nầy chính là sức ép làm cho các doanh nghiệp Việt Nam hoạt
động với ưu tiên là có thể tồn tại trong giai đoạn trước mắt hơn là nhắm đến
phát triển bền vững lâu dài trong tương lai.
Trong khi các doanh nghiệp nước ngoài thường đưa sang Việt Nam
những nhân viên có bề dày kinh nghiệm từ các thị trường gần gủi với Việt
Nam như Philippines, Thái Lan, Indonesia và họ tuyển dụng những nhân viên
địa phương am hiểu thị trường địa phương để phối hợp với những nhân viên
nước ngoài có trình độ chuyên môn cao, th× các doanh nghiệp Việt Nam
thường chỉ có thể sử dụng nguồn nhân lực có sẵn từ địa phương, nguồn nhân
lực vốn thích hợp và quen thuộc với nền kinh tế bao cấp hơn là thị trường
cạnh tranh tự do.
Đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ Việt Nam hoạt động bán hàng
chủ yếu nhằm đạt mục tiêu bán hàng trong năm hơn là một định hướng chiến
lược cạnh tranh của doanh nghiệp. Nhiều doanh nghiệp đa dạng hoá nghành
nghề kinh doanh một cách tuỳ tiện, phát triển thành tập đoàn gồm nhiều
nghành nghề không liên quan gì với nhau mà lại không có sự nghiên cứu chu
đáo. Bước đi chiến lược nầy tiềm ẩn nhiều rủi ro.
 Đánh giá môi trường kinh doanh Việt Nam
Ngày 26/9/2007, Ngân hàng Thế giới (WB) đã công bố Bảng xếp hạng
môi trường kinh doanh các nước trên thế giới. Báo cáo của WB năm nay đánh
14

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét