Thứ Tư, 12 tháng 2, 2014

Cải cách thủ tục hành chính trong đăng kí và quản lí hộ tịch trên địa bàn thành phố Hồ chí minh

đó, yêu cầu về tính phục vụ người dân lại đòi hỏi thủ tục đăng ký hộ tịch phải
được cải cách theo hướng giản tiện, tạo thuận lợi tối đa để đáp ứng yêu cầu
đăng ký hộ tịch của người dân một cách nhanh chóng, kịp thời. Trong điều
kiện việc quản lý hộ tịch còn mang tính chất thủ công, trình độ nhận thức
pháp luật của một bộ phận không nhỏ dân cư còn hạn chế thì việc đáp ứng
cùng lúc hai yêu cầu này là bài toán phức tạp đối với việc cải cách hành chính
trong lĩnh vực đăng ký hộ tịch.
3.2. Mục đích
Cải cách thủ tục hành chính trong lĩnh vực hộ tịch phải đặt trên nền tảng làm
rõ mối quan hệ giữa cơ quan nhả nước với công dân, trong đó trách nhiệm của
2 bên phải được phân định rõ ràng, rành mạch. Thứ nhất, cơ quan nhà nước có
trách nhiệm ghi nhận sự kiện hộ tịch do người dân đến khai báo. Sự ghi nhận
này cũng chính là sự quản lý của Nhà nước, vì qua đăng ký Nhà nước mới
nắm được thân trạng của mỗi người từ lúc sinh ra cho đến khi chết. Thứ hai,
về phía công dân phải nhận thức việc đăng kỷ hộ tịch là trách nhiệm và nghĩa
vụ của mình; để Nhà nước thực hiện các quyền công dân. Người dân phải
thành thật khai báo khi đăng ký. Nếu việc khai báo không trung thực, gian dối
dẫn đến sự sai lệch thân nhân con người và hậu quả pháp lý về sự sai biệt này
ắt hẳn xảy ra, Từ phân tích trên, chúng ta nhận thấy đăng ký và quản lý hộ
tịch lả hai mặt của 1 vấn đế, luôn gắn kết chặt chẽ với nhau và phát sinh hệ
quả pháp lý.
Mục đích cải cách thủ tục hành chính trong lĩnh vực hộ tịch phải đảm bảo
nguyên tắc Nhà nước tạo thuận lợi cho người dân, tin dân và chỉ kiểm tra khi
có căn cứ sự kiện đó vi phạm. Bởi lẽ, khi đăng ký hộ tịch nếu người dân thực
hiện các thủ tục, phải liên hệ nhiều cơ quan, nhiều "cửa" thì việc cải cách thủ
tục hành chính trong lĩnh vực hộ tịch sẽ không còn ý nghĩa.
3.3. Nguyên tắc cải cách thủ tục hành chính
Cải cách thủ tục hành chính trong lĩnh vực hộ tịch cần theo các nguyên tắc
sau:
Thứ nhất, thủ tục hành chính phải thuận tiện cho nhân dân và bảo đảm hiệu
quả quản lý Nhà nước trong lĩnh vực hộ tịch, tránh tình trạng rơi vào một
trong hai thái cực: kiểm soát quá chặt chẽ, cứng nhắc, phi hiệu quả hoặc
buông lỏng quản lý.
Thứ hai, xây dựng một chính sách thưởng, phạt thỏa đáng, khích lệ tinh thần
làm việc của cán bộ công chức, tăng tính hiệu quả và chất lượng của các dịch
vụ công
Thứ ba, phân định rõ trách nhiệm của từng cơ quan quản lý nhà nước trong
lĩnh vực hộ tịch, tránh chồng chéo về thẩm quyền hoặc phân định thẩm quyền
quá phức tạp
Thứ tư, rút ngắn tối đa thời gian giải quyết hồ sơ công việc cho dân, mẫu
héo các loại thủ tục, công khai thủ tục, lệ phí, thời hạn giải quyết hồ sơ tại trụ
sở.
II. QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH, PHÁT TRIỂN CÁC QUY ĐỊNH CƠ
BẢN VỀ ĐĂNG KÝ VÀ QUẢN LÝ HỘ TỊCH Ở VIỆT NAM
Tùy theo bản chất của mỗi chế độ xã hội để có quan điểm phù hợp với mục
đích của hộ tịch. Tuy nhiên, do vai trò vị trí và tầm quan trọng của hộ tịch,
chế độ xã hội nào cũng coi.trọng việc đăng ký và quản lý hộ tịch. Điểm lại
quá trình hình thành, phát triển các quy định cơ bản về đăng ký và quản lý hộ
tịch ở nước ta, nhóm nghiên cứu đưa ra một số nhận xét như sau:
1. Giai đoạn trước năm 1945 (thời kỳ phong kiến và thời Pháp thuộc)
Việc lập sổ đinh hay sổ gia phả dưới thời phong kiến ở nước ta chưa thể gọi
là sổ hộ tịch, chỉ có thể xem đây là những dấu hiệu xuất hiện ban đầu có liên
quan đến hộ tịch. Bới các chứng thư này bị hạn chế nhiều mặt về nội dung và
đối tượng điều chỉnh; các việc dân sự (sinh, tử, kết hôn) chưa được chính thức
đề cập đến. Sổ đinh với yêu cầu và mục đích phục vụ cho hoạt động binh dịch
và thuế khóa của triều đình; Sổ gia phả chỉ giới hạn trong các gia đình quyền
quý và các dòng tộc, chưa điều chỉnh các quan hệ xã hội rộng rãi trong xã hội.
Dưới thời Pháp thuộc, với bản chất thống trị và nô dịch, thực dân Pháp xây
dựng hộ tịch nhằm phục vụ cho việc cai trị thuộc địa, chủ yếu đảm bảo thực
hiện việc binh dịch, thuế khóa vả đặc biệt qua hộ tịch tiến hành các biện pháp
kiểm soát chặt chẽ dân tình để trấn áp lực lượng yêu nước đấu tranh giành độc
lập. Do đó, ngay từ rất sớm hộ tịch đã được xây dựng thành Luật khắp cả 3
miền: Bắc, Trung và Nam. Quá trình thực hiện các văn bản này không ngừng
được củng cố, phát triển phù hợp với mục đích đăng ký và quản lý hộ tịch của
chế độ. Biểu hiện bằng việc quy định các chương mục rất cụ thể bởi các bộ
Dân luật Bắc kỳ, Hoàng Việt Trung kỳ hộ luật và Dân Luật giản yếu Nam kỳ.
Sau mỗi giai đoạn thực hiện lại ban hành tiếp các văn bản dưới luật hoặc luật
mới để điều chỉnh, bổ sung kịp thời theo yêu cầu của chính quyền thực dân.
Ngay cả Bộ Hoàng Việt Trung kỳ hộ luật, các nội dung hộ tịch tuy được nhà
vua ban hành, nhưng cũng phải phụ thuộc hoàn toàn vào ý chỉ cai tri của thực
dân Pháp, cho dù đó chỉ là những vẩn đề mang tính thủ tục hành chính. Điều
này thể hiện qua việc ban hành 05 quyển của Bộ luật đều có Nghị định của
toàn quyền Đông dương duyệt y hoặc như tại Điều 18 chương I thiên thứ hai
quy định "Các quan tỉnh, sau khi ý hiệp với quan công sứ, Có thể cho phép
những xóm ở xa bản xã được lập nhân thế bộ riêng".
Công tác đăng ký và quản lý hộ tịch về cơ bản được phân thành 2 chế
độ trách nhiệm rõ ràng: cơ quan hành chính ở cơ sở (ủy ban hành chính
cấp xã) chịu trách nhiệm đăng ký và quản lý bước đầu; các cơ quan tư
pháp (tòa án, biện lý) chịu trách nhiệm kiểm tra, giám sát và giải quyết
các hậu quả phát sinh. Điều này thể hiện nguyên tắc chế ước được khai
thác tối đa. Nhân sự hộ tịch được bố trí ổn định mang tính chuyên trách
như hộ lại hay ủy viên hộ tịch. Việc quản lý, sử dụng sổ hộ tịch được quy
định rất nghiêm ngặt gắn liền với trách nhiệm pháp lý của người có thẩm
quyền đăng ký và quản lý hộ tịch. Quan hệ trách nhiệm trong việc thông
tin, điều chỉnh, bô sung nội dung hộ tịch cũng được quy định rõ ràng.
Hình thức về biểu mẫu, sổ hộ tịch được quy định rất chi tiết.
Đặc biệt về chế tài hộ tịch quy định vô cùng khắt khe đối với những hành vi
vi phạm của cả người có trách nhiệm thực hiện đăng ký, quản lý lẫn người có
nghĩa vụ phải khai báo đặng ký, nhất là người thực hiện đăng ký, quản lý, bất
chấp trình độ dân trí, điều kiện kinh tế, giao thông đi lại của người dân
trong giai đoạn đó. Do xuất phát từ bản chất của chế độ, ngoài việc xử lý hành
chính với mức phạt tiền rất cao so với thu nhập, chế tài hình sự được đưa trực
tiếp luôn vào các văn bản quy định hộ tịch (dù luật hình đã được quy định).
Hầu hết.các hành vi vi phạm về đăng ký và quản lý hộ tịch đều bị coi là trọng
tội. Chế tài hình sự chủ yếu quy định hình thức phạt tù và mức phạt có thể đến
chung thân.
Các quy định về hộ tịch của chế độ thuộc địa và tay sai tuy khá hoàn thiện,
nhưng trong thực tiễn việc áp dụng không được như mong muốn của họ. Do
nhiều nguyên nhân. trước hết là do bản chất của chế độ, việc đăng ký và quản
lý hộ tịch không.nhằm mục đích phục vụ nhân dân mà để thống tri; Đa số
người dân chưa thấy được quyền lợi từ việc thực hiện hộ tịch, đã phải gánh
chịu nhiều nghĩa vụ từ những quy định hà khắc, không phù hợp với hoàn cảnh
điều kiện sông của mình trong giai đoạn đó. Chủ trương của những người
kháng chiến yêu nước, của cách mạng giải phóng dân tộc là bằng mọi cách
phải lũng đoạn sự quản lý thống trị của thực dân xâm lược và của bộ máy tay
sai vốn sẵn quan liêu, thi hành một cách máy móc. Vấn đề khác mang tính đặc
thù, xuyên suốt không thể không đề cập đến, đó là chiến tranh ác liệt đã làm
hạn chế không ít việc đăng ký và quản lý hộ tịch của các chế độ trước đây.
2. Giai đoạn từ nãm 1945 đến năm 1975
2.1. Quy định về hộ tịch của Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa
Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa đã nhận thức đúng đắn về tầm quan
trọng của công tác đăng ký và quản lý hộ tịch, nhưng suốt một thời gian dài từ
1945 đến 1975 đất nước ngập chìm trong chiến tranh bởi hai cuộc kháng
chiến giải phóng dân tộc và thống nhất đất nước nên việc xây dựng và hoàn
thiện pháp luật về hộ tịch gần như không có sự chuyển biến đáng kể. Việc
quản lý nhân thân con người trong giai đoạn này vừa phải đáp ứng được yêu
cầu của đời sống xã hội; vừa phải đảm bảo phục vụ nhu cầu chiến tranh giải
phóng, đảm bảo an ninh trật tự và an toàn xã hội. Do đó trong thời kỳ này,
ngoài việc quản lý con người bằng hộ tịch, còn quản lý con người thông qua
giải pháp hộ khẩu và các giải pháp khác.
Tổ chức thực hiện.hộ khẩu chủ yếu tập trung cho ngành công an, chỉ phù
hợp những yêu cầu nhất thời trong chiến tranh, không phù hợp trong thời
bình. Có thể nói trong giai đoạn này, các quy định của Nhà nước Việt Nam
dân chủ cộng hòa thể hiện việc đăng ký và quản lý hộ tịch bằng biện pháp
hành chính đơn thuần tập trung ở đầu vào; tức là chỉ tập trung vào các cơ
quan hành chính có thẩm quyền !hực hiện việc đăng ký và quản lý hộ tịch, cơ
quan tư pháp (tòa án, kiểm sát) chỉ tham gia khi hậu quả phát sinh và có thể
làm chuyển biến, chấm dứt hoặc tái lập một sự kiên hộ tịch phát sinh mới. Về
tổ chức nhân sự, Nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa không quy định cơ
chế chuyên trách hộ tịch (như hộ lại hoặc ủy viên hộ tịch), chỉ quy định chung
về người được phân công phụ trách và cán bộ thực hiện. Việc quản lý sổ bộ,
kiêm tra, giám sát công tác đăng ký và quản lý hộ tịch chủ yếu vẫn do hệ
thống hành pháp thực hiện, trừ trường hợp Viện kiểm sát nhân dân thực hiện
kiểm sát việc tuân thủ pháp luật.
Do hoàn cảnh lịch sử, các quy định về thủ tục đăng ký và quản lý hộ tịch
thời kỳ này còn quá đơn giản. Quản lý, sử dụng sổ hộ tịch chưa thật rõ ràng.
Trong đó, không quy định việc cấp lại bản chính các giấy tờ hộ tịch
Chế tài hộ tịch hầu như không có, bởi các quy định về chế tài chỉ mang tính
nguyên tắc chung, thiếu quy định cụ thể để xác lập các hành vi vi phạm dẫn
đến hệ quả người có thẩm quyền đăng ký và quản lý hộ tịch, thiếu tinh thần
trách nhiệm hoặc cố ý làm trái quy định, không được xử lý nghiêm túc; người
có trách nhiệm đi đăng ký mà không đăng ký hoặc khai gian dối nhưng không
có các biện pháp cần thiết để xử lý, ngoại trừ biện pháp giáo dục thuyết phục.
2.2. Quy định về hộ tịch của chế độ cũ ở miền Nam
Do xác định được vai trò và tầm quan trọng của hộ tịch cũng như yêu cầu
cai trị của mình, chế độ cũ không chỉ tiếp tục kế thừa hầu như toàn bộ các quy
định về đăng ký hộ tịch giai đoạn từ thời thuộc địa của thực dân Pháp để lại,
mà còn quy định bổ sung một cách chặt chẽ hơn trong đó có những quy định
vận dụng linh hoạt để đáp ứng trực tiếp yêu cầu của.chiến tranh, như các quy
định về khai tử, khai sinh. Việc quản lý, sử dụng sổ hộ tịch được quy định
một cách chặt chẽ, gắn liền với trách nhiệm của người có thẩm quyền. Thủ
tục quy định cụ thể, rõ ràng có bổ sung qua từng giai đoạn, dù đang trong tình
trạng chiến tranh.
Hệ thống tổ chức đăng ký và quản lý hộ tịch được xây dựng ổn định; trong
đó có cơ quan hành chính thực hiện đầu vào, cơ quan tư pháp thực hiện tất cả
mọi hậu quả phát sinh, đồng thời thực hiện nguyên tắc chế ước giữa các cơ
quan này.
Về nhân sự, hộ lại (ủy viên hộ tịch) được bố trí ổn định, mang tính chuyên
nghiệp lâu bền.
Chế tài hộ tịch được dự liệu rất cụ thể, áp dụng cho mọi đối tượng vi phạm,
cả bên đi đăng ký cũng như bên thực hiện đăng ký và quản lý hộ tịch.
Các biện pháp chế tài như kỷ luật, hành chính, hình sự, dân sự được quy
định đầy đủ, nghiêm khắc, nhất là biện pháp xử phạt tiền và truy cứu trách
nhiệm hình sự.
3. Giai đoạn từ năm 1975 đến nay
Sau khi giải phóng miền Nam và thống nhất đất nước mặc dù Nhà nước có
quan tâm đến hộ tịch nhưng những văn bản quy định về hộ tịch chủ yểu nhằm
để xây dựng, củng cố hệ thống tổ chức và thực hiện hộ tịch ở miền Nam. Bản
Điều lệ hộ tịch năm 1961 vẫn tiếp tục được thi hành suốt một thời gian dài
gần 40 năm, mãi cho đến 1998 mới ban hành Nghị định số 83/1998/NĐ-CP
thay thế. Có thể nói giai đoạn từ sau giải phóng đến 1998, công tác hộ tịch
chưa được quan tâm đúng mức. Biểu hiện qua các vấn đề sau đây:
- Chưa ban hành văn bản quy phạm pháp luật thống nhất để kịp thời thay thế
Bản điều lệ hộ tịch năm 1961. Các quy định trước đây về quản lý, sử dụng hồ
sơ, sổ hộ tịch chưa được chặt chẽ; các loại biểu mẫu hộ tịch chưa hợp lý. Vấn
đề hộ tịch ở miền Nam có thể coi là đặc thù, bởi phần do chiến tranh hủy hoại,
phần do chế độ cũ trước khi tan rã cố ý đốt phá, phần do trong chiến tranh
cách mạng chủ trương chống phá sự quản lý của chế độ cũ và phần khác do
thiên tai, lũ lụt tàn phá, hoặc do không được bảo quản tốt Những văn bản
quy định về đăng ký hộ tịch không bổ sung kịp thời, đầy đủ để chấn chỉnh lại.
Bản chính giấy tờ hộ tịch không được cấp lại nhưng trong thực tế các quan hệ
thủ tục đều đòi hỏi bản chính để đối chiếu.
- Quan hệ hộ tịch có yếu tố nước ngoài gặp rất nhiều trở ngại, do thiếu các
văn bản điều chỉnh, nhất là trong giai đoạn bước đầu của cải cách đổi mới,
tiến hành hội nhập; hầu như mỗi sự kiện hộ tịch phát sinh có yếu tố nước
ngoài, đều phải thỉnh thị ý kiến của cấp trên.
- Nhận thức về hộ tịch của cán bộ thực hiện, của cơ quan quản lý chưa đầy
đủ xem công tác hộ tịch đơn giản như mọi "nghiệp vụ" hành chính khác, chưa
thấy hết tính chất đặc thù của công tác hộ tịch. Đối với người dân, do trình độ
hạn chế, hoàn cảnh sinh sống chưa ý thức được việc đăng ký hộ tịch không
chỉ là nghĩa vụ mà còn là quyền lợi thiết thực của mình.
- Về nhân sự cho công tác hộ tịch vẫn chưa có cán bộ chuyên trách; cán bộ
thực hiện do nhiều nguyên nhân được điều động một cách tùy nghị theo cảm
tính. Việc phân công, phân cấp đăng ký và quản lý hộ tịch thiếu nhất quán,
khi thì ngành này khi thì ngành khác, hoặc khi thì cấp này khi thì cấp khác.
Nghị định số 83/1998/NĐ-CP mở ra một bước ngoặc mới cho việc chấn
chỉnh công tác hộ tịch; bổ sung và xóa bỏ một bước các thiếu sót và bất hợp
lý trên đây. Tuy nhiên, Nghị định số 83/1998/NĐ-CP vẫn còn những hạn chế
nhất định, trong đó chưa giải quyết thông thoáng được về thủ tục, phân cấp
đăng ký và quản lý, biểu mẫu hộ tịch chưa hợp lý Nghị định số
83/1998/NĐ-CP vẫn còn quy định rườm rà vả bất hợp lý, trái với Hiến pháp
(quyền cơ bản của công dân), trái với một số đạo luật khác (quyền nhân thân:
con sinh ra là phải đăng ký khai sinh); Ví dụ tại Điều 19 khoản 1 Nghị định số
83/1998/NĐ-CP quy định "Nếu có đủ các giấy tờ hợp lệ thì Chủ tịch UBND
cấp xã ký và cấp ngay một bản chính giấy khai sinh ". Lật ngược lại vấn đề
nếu không có đủ các giấy tờ hợp lệ, đương nhiên sẽ không được ký và cấp
giấy khai sinh, trái với quy định của Bộ luật dân sự năm 1995 về quyền được
khai sinh. Nhân sự thực hiện hộ tịch thiếu ổn định, không có chức danh
chuyên trách như hộ lại hay uỷ viên hộ tịch.
Nghị định số 158/2005NĐ- CP đã giải quyết cơ bản các vấn đề vướng mắc
trên đây. Tuy vậy, cho đến nay chế tài hộ tịch vẫn chưa được quy định cụ thể
trừ Nghị định số 87/2001/NĐ-CP quy định về xử phạt vi phạm hành chính
trong lĩnh vực hôn nhân gia đình. Về nhận thức, với chủ trương nền hành
chính phục vụ nhân dân nói chung và hộ tịch nói riêng, tuy vậy trong nhiều
trường hợp, không ít các biểu hiện nhận thức thiếu đúng đắn, xem hộ tịch là
một bộ phận nghiệp vụ hành chính đơn thuần. Tình trạng quan liêu, cửa
quyền, tuỳ tiện, thiếu trách nhiệm trong thực thi nhiệm vụ hộ tịch còn khá phổ
biến. Đối với nhân dân nhất là ở vùng sâu, vùng xa, người dân tộc thiểu số,
trình độ dân trí và ý thức pháp luật về hộ tịch còn hạn chế nhưng việc tuyên
truyền, giáo dục, vận động đăng ký hộ tịch không được tiến hành thường
xuyên.
III. THỰC TRẠNG ĐĂNG KÝ, QUẢN LÝ HỘ TỊCH TẠI PHƯỜNG,
XÃ,THỊ TRẤN TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH .
1. Cơ sở pháp lý
Hiện nay, quy định pháp luật về đăng ký, quản lý hộ tịch tại phường, xã, thị
trấn ghi nhận ở nhiều văn bản khác nhau, trong đó, văn bản giữ vai trò chủ
đạo quy định chủ yếu trình tự thủ tục đăng ký, quản lý hộ tịch đối với các sự
kiện hộ tịch là Nghị định số 158/2005/NĐ-CP ngày 27/12/2005 của Chính
phủ về đăng ký và quản lý hộ tịch.
Quán triệt tinh thần cải cách hành chính của Đảng và Nhà nước, Nghị định
số 158/2005/NĐ-CP đã kế thừa những quy định tiến bộ của Nghị định số
83/1998/NĐ-CP và bổ sung thêm những quy định mới nhằm xây dựng một
Nghị định về đăng ký và quản lý hộ tịch hoàn chỉnh, đồng bộ, thống nhất, ổn
định lâu dải. Về mặt quy phạm pháp luật, Nghị định số 158/2005/NĐ-CP đã
cơ bản hệ thống các quy định liên quan về đăng ký hộ tịch trước đây nằm rải
rác ở các văn bản khác nhau và khắc phục những điểm vướng mắc, bất cập
trong hoạt động thực tiễn. Đối với công tác đăng ký hộ tịch tại UBND cấp xã,
Nghị định số 158/2005/NĐ-CP đã tinh giản thủ tục, rút ngắn thời hạn giải
quyết hồ sơ, tăng cường trách nhiệm của cán bộ hộ tịch, trách nhiệm của Chủ
tịch UBND cấp xã, nhằm nâng cao hiệu quả công tác quản lý nhà nước về hộ
tịch, chuẩn hóa đội ngũ cán bộ công chức và ngăn ngừa hành vi nhũng nhiễu,
gây khó khăn, phiền hà cho người dân. Tuy nhiên, qua thời gian triển khai,
thực hiện Nghị định số 158/2005/NĐ-CP của Chính phủ tại TP. Hồ Chí Minh,
cụ thể là ở phường xã, nổi lên những bất cập sau đây:
Thứ nhất, so với Nghị định số 83/1998/NĐ-CP thì Nghị định số
158/2005/NĐ-CP có sự phân cấp mạnh mẽ thẩm quyền giải quyết các vụ việc
hộ tịch giữa các cơ quan nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho người dân khi liên
hệ với cơ quan nhà nước, đồng thời điều tiết lượng việc của các cơ quan nhà
nước với nhau, giúp các cơ quan này thực hiện đúng chức năng, nhiệm vụ
theo quy định của pháp luật. Tuy nhiên, sự chuẩn bị về nguồn nhân lực, về cơ
sở vật chất chưa kịp thời, chưa thật sự đủ mạnh, bước đầu gây ra sự khó khăn,
lúng túng trong đội ngũ cán bộ làm công lác hộ tịch tại một số xã phường tại
TP. Hồ Chí Minh.
Thứ hai, Nghị định số 158/2005/NĐ-CP đã bãi bỏ những giấy tờ không thật
sự cần thiết mà người dân phải nộp hoặc xuất trình khi làm thủ tục đăng ký hộ
tịch; trong trường hợp cán bộ tư pháp hộ tịch biết rõ về quan hệ nhân thân,
hôn nhân, gia đình của đương sự thì được phép không buộc đương sự xuất
trình các giấy tờ theo quy định về đăng ký hộ tịch. Quy định này là một bước
đột phá của Nhà nước trong việc tinh giảm các thủ tục giấy tờ, giúp người dân
khi tham gia quan hệ đăng ký hộ tịch thuận lợi. Tuy nhiên, sự quá đơn giản về
thủ tục, giấy tờ có thể dẫn đến hậu quả về sau khi có vấn đề xác định về trách
nhiệm của cá nhân, tổ chức trong việc quản lý, đăng ký hộ tịch.
Thử ba, Nghị định số 158/2005/NĐ-CP cho phép cấp lại bản chính giấy khai
sinh trong trường hợp bị mất, hư hỏng là phù hợp với tình hình thực tế. Tuy
nhiên, trong điều kiện hiện nay việc cho phép cấp lại giấy khai sinh bản chính
cho nhân dân sẽ tạo tiền lệ người dân không thật sự chú ý đến việc giữ gìn cẩn
thận bản chính giấy khai sinh, có thể đề nghị cấp bản chính khai sinh nhiều
lần, tùy tiện, tràn lan, gây khó khăn và tăng nhiều việc cho cán bộ hộ tịch.
Thứ tư, quy định trách nhiệm của cán bộ tư pháp hộ tịch cấp xã đối với
những sự kiện hộ tịch phát sinh trên địa bàn xã, phường, thị trấn mà không
được đăng ký. Quy định này nhằm xác định và nâng cao tinh thần trách nhiệm
của cán bộ tư pháp hộ tịch trong công tác, buộc cán bộ tư pháp hộ tịch phải
tích cực bám dân, chủ động trong công việc chứ không chỉ ngồi chờ dân tại
trụ sở cơ quan. Quy định trên có thể phù hợp với từng địa phương, tuy nhiên
tại TP. Hồ Chí Minh tình hình dân số ngày càng gia tăng, dân nhập cư ngày
càng đông, cán bộ tư pháp hộ tịch biên chế ít, ngoài công tác đăng ký, quản lý
hộ tịch còn phải thực hiện các công việc khác do đó, không thể quán xuyến tất
cả các sự kiện phát sinh về hộ tịch tại địa bàn quản lý. Quy định như trên, tại
TP. Hồ Chí Minh là khó khả thi.
2. Thực trạng đăng ký, quản lý hộ tịch tại phường, xã, thi trấn trên địa bàn
TP. Hồ Chí Minh
2.1. Đăng ký hộ tịch
2.1.1. Đăng ký khai sinh
Đây là sự kiện pháp lý quan trọng làm phát sinh các quyền nhân thân của
con người từ khi sinh ra, đồng thời cũng là cơ sở để Nhà nước quản lý thông
tin. dữ liệu của công dân trong xã hội. Trong 05 năm (2001-2005), UBND cấp
xã đã đăng ký khai sinh cho 415.926 trẻ em (năm 2005: 11.980 trường hợp -
tăng 6,6% so với năm 2001). Ngoài việc đăng ký khai sinh đúng hạn, Sở Tư
pháp còn triển khai cho cơ quan tư pháp quận huyện, phường xã thực hiện
"Chương trình hành động vì trẻ em năm 2000" của Thành ủy, UBND thành
phố, đề án "Năm tập trung đăng ký khai sinh cho trẻ em" của Bộ Tư pháp vào
năm 2001”. Tính hết năm 2005 thành phố đã đăng ký cho 10.670/11.255
trường hợp (94,8%), về cơ bản đã giải quyết được tình trạng trẻ em chưa được
đăng ký khai sinh tại thành phố. Sở Tư pháp đã chỉ đạo các cơ quan tư pháp
địa phương tiếp tục thực hiện đăng ký khai sinh cho trẻ em đối với các trường
hợp phát sinh mới và luôn theo dõi nắm tình hình trên địa bàn để không xảy
ra tình trạng trẻ em không được đăng ký khai sinh.
Qua thống kê số liệu đăng ký khai sinh, nhóm nghiên cứu nhận thấy việc
đăng ký khai sinh cho trê em trong thời gian qua chưa đảm bảo tính kịp thời
(số đăng ký khai sinh theo đề án của Bộ Tư pháp chiếm 2,6% tổng số đăng ký
khai sinh trong 05 năm). Điều này một phần do nhận thức của người dân còn
hạn chế và một số vướng mắc về quy định pháp luật chưa tạo cơ chế linh hoạt
chủ động để thực hiện hiệu quả công tác đăng ký khai sinh.
2.1.2. Đăng ký kết hôn
Để đảm bảo quyền lợi chính đáng của phụ nữ trong gia đình và xã hội, nhiều
năm qua thành phố đã tiến hành khảo sát và vận động các trường hợp vợ
chồng chưa đăng ký kết hôn thực hiện đăng ký kết hôn theo quy định. Tính
hết năm 2005, thành phổ đã đăng ký kết hôn cho 16.574 / 19.086 (88%)
trường hợp hôn nhân thực tế theo "Nghị quyết số 35/2000/NQ 10. Trong 05
năm (2001-2005), UBND cấp xã đã đăng ký kết hôn cho 237.889 trường hợp
(năm 2005 giảm 3.801 trường hợp (8,9% so với năm 2001).
Qua các số liệu trên cho thấy tình trạng đăng ký kết hôn có chiều hướng
giảm. Điều này mâu thuẫn với sự gia tăng dân số tại thành phố và tỷ lệ số
người trong độ tuổi kết hôn ngày càng cao. Nguyên nhân của tình trạng trên
xuất phát từ sự nhận thức của người dân chưa hiểu hết ý nghĩa của việc đăng
ký kết hôn và trình tự thủ tục đăng ký còn rườm rà, phức tạp. Để tạo điều kiện
thuận lợi cho người dân thực hiện tốt quyền nhân thân của mình và hạn chế
hậu quả xã hội từ việc không đăng ký kết hôn, Nghị định số 158/2005/NĐ-CP
đã tinh giản một số giấy tờ, trình tự thủ tục và đề cao trách nhiệm của cán bộ
tư pháp hộ tịch, Tuy nhiên, một số quy định của Nghị định số 158/2005/NĐ-
CP về thủ tục đăng ký kết hôn chưa cụ thể, rõ ràng, gây khó khăn khi triển
khai thực hiện:
- Trưởng hợp đăng ký kết hôn cho nam, nữ đã cư trú tại nhiều địa phương
nhưng địa phương đang cư trú cuối cùng chỉ xác nhận tình trạng hôn nhân
trong tờ khai kết hôn từ lúc họ nhập khẩu. Vậy nếu cán bộ tư pháp hộ tịch yêu
cầu họ chứng minh tình trạng hôn nhân ở những nơi cư trú trước đây thì có
gây khó khăn phiền hà không? Cách giải quyết như thế nào? Theo hướng dẫn
của Bộ Tư pháp: trong trường họp một người dã qua nhiều nơi cư trú khác
nhau (kể cả thời gian cư trú ở nước ngoài), thì khi đăng ký kết hôn, ngoài việc
xác nhận tình trạng hôn nhân của nơi cư trú hiện tại, đương sự phải viết tờ
cam kết (không có mẫu riêng) và chịu trách nhiệm về cam kết của mình về
tình trạng hôn nhân trong thời gian đó. Hướng dẫn nghiệp vụ của Bộ Tư pháp
đã giúp cho cán bộ tư pháp hộ tịch phường, xã nắm rõ về thủ tục đăng ký kết
hôn, tạo điều kiện thuận lợi cho nhân dân trong việc đăng ký kết hôn, giúp
công tác quản lý hộ tịch trên địa bàn được dễ dàng, thuận lợi. Tuy nhiên, khi
mà sự cam kết của người dân chưa được pháp luật quy định bằng một chế tài
cụ thể thì khó hạn chế được các sai trái, gian dối.
- Nghị định số 158/2005/NĐ-CP bãi bỏ thẩm quyền xác nhận tình trạng hôn
nhân của thủ truởng cơ quan nơi cán bộ công chức, người lao động công tác.
Quy định nảy tuy chặt chẽ về thủ tục nhưng có thể gây khó khăn cho người
đăng ký kết hôn công tác tại tinh này nhưng cư trú ở tỉnh khác.
2.1.3. Đăng ký khai tử
Trong 05 năm (2001-2005), UBND cấp xã đã đăng ký khai tử cho 126.594
trường hợp (năm 2005 giảm 3.306 trường hợp - 14,4% so với năm 2001).
Để kịp thời nắm vững tình hình giảm dân số và tạo thuận lợi cho người dân
thực hiện các thủ tục pháp lý liên quan đến sự kiện tử của người thân, Nghị
định số 158/2005/NĐ-CP đã quy định một số điểm mới về thẩm quyền, về
thời hạn, trách nhiệm của người đi đăng ký khai tử. Tuy nhiên, những trường
hợp sau đây thì Nghị định số 158/2005/NĐ-CP chưa quy định cách giải quyết:
:
- Trường hợp đãng ký khai tử cho công dân Việt Nam thường trú trong nước
nhưng chết ở nước ngoài, mà người thân có yêu cầu đăng ký tại nơi cư trú của
đương sự thì giải quyết: như thể nào? Trong trường hợp này theo nhóm
nghiên cứu nên quy định thân nhân của người chết tiến hành việc đăng ký
khai tử tại nơi cư trú cuối cùng của người chết trước khi họ xuất cảnh ra nước
ngoài là phù hợp nhất.
- Nghị định số 158/2005/NĐ-CP quy định trẻ em sinh ra sống được từ 24
giờ trở lên rồi mới chết cũng phải được đăng ký khai sinh và khai tử; nếu cha
mẹ không đi đăng ký thì cán bộ tư pháp hộ tịch tự xác định nội dung để ghi
vào sổ đăng ký khai sinh và khai tử. Quy định này rất khó khăn cho cán bộ
thực hiện bởi họ không thể "tự mình" đặt tên cho đứa trẻ mà chỉ có thể "phối
hợp" với cha mẹ đứa trẻ mới thực hiện được.
2.1.4. Đăng ký nuôi con nuôi
Trong 05 năm (2001-2005), UBND cấp xã đã đăng ký nuôi con nuôi cho
1.929 trường hợp (năm 2005 giảm 20 trường hợp - 4,7% so với năm 2001).
Nhìn chung việc giải quyết hồ sơ nuôi con nuôi trong thời gian qua chặt chẽ,
đúng thủ tục thể hiện mục đích đúng đắn của việc giao nhận con nuôi là tìm
cho trẻ mái ấm gia đình.
Để khắc phục những khó khăn vướng mắc trong thực tiễn, đảm bảo quyền
lợi của trẻ em và những người liên quan trong việc xác lập quan hệ pháp lý
nuôi con nuôi, Nghị định số 158/2005/NĐ-CP đã quy định một số điểm mới
theo hướng tinh giản thủ tục nhưng chặt chẽ về quy trình giải quyết hồ sơ.
Tuy nhiên, pháp luật về nuôi con nuôi chỉ quy định về điều kiện nuôi con nuôi
và thủ tục đăng ký việc nuôi con nuôi. Trong thực tế cũng có trường hợp ông,
bà nội (hoặc ngoại), nhận cháu ruột làm con nuôi (Nghị định số
158/2005/NĐ-CP và các văn bản về hôn nhân gia đình chưa quy định). Ngoài
việc quy định điều kiện nhận trẻ làm con nuôi phải quy định phạm vi được
nhận trẻ làm con nuôi; cần xác định cụ thể như thế nào là già yếu, neo đơn đối
với trường hợp nhận con nuôi trên 15 tuổi. Trên thực tế, cùng trường hợp
giống nhau nhưng có địa phương giải quyết có địa phương không giải quyết,
gây khó khăn cho người dân, tạo kẽ hở để cán bộ tư pháp hộ tịch có điều kiện
sách nhiễu người dân có nhu cầu về đăng ký nuôi con nuôi.
2.1.5. Đăng ký giám hộ
Trong 05 năm (2001-2005), UBND cấp xã đã đăng ký giám hộ cho 1.447
trường hợp (năm 2005 tăng 247 trường hợp - 156,3
0
/
0
so với năm 2001). So
với quy định trước đây, Nghị định số 158/2005/NĐ-CP đã bãi bỏ quy định
yêu cầu người được giám hộ phải có mặt khi đăng ký giám hộ.
2.1.6. Đăng ký nhận cha, mẹ, con
Trong 02 năm (2004-2005), UBND cấp xã đã đăng ký nhận cha, mẹ, con
cho 552 trường hợp (năm 2005 tăng 360 trường hợp - 4,7
o
/
o
so với năm 2004).
2.1.7. Về thay đổi, cải chính hộ tịch, xác định lại dân tộc, xác định lại
giới tính, bổ sung hộ tịch, điều chỉnh hộ tịch
Theo quy định của Nghị định số 83/1998/NĐ-CP thì Sở Tư pháp tham mưu
giúp UBND thành phố thực hiện việc thay đổi, cải chính hộ tịch. Trong 05
năm (2001- 2005), UBND thành phố đã thực hiện việc thay đổi, cải chính hộ
tịch cho 10.798 trường hợp (năm 2005 giảm 2.443 trường hợp - 70,9% so với
2001) Tuy nhiên, san khi Nghị định số 158/2005/NĐ-CP có hiệu lực thì thẩm
quyền này chuyển giao cho UBND cấp xã trong việc thay đổi, cải chính hộ
tịch cho trẻ em dưới 14 tuổi. Điều này giúp UBND thành phố hạn chế giải
quyết những việc sự vụ và tạo thuận lợi cho người dân khi liên hệ với UBND
cấp xã giải quyết. Tuy nhiên, việc thực hiện thay đổi, cải chính hộ tịch tại cấp
cơ sở gặp một số khó khăn do một số quy định của Nghị định số
158/2005/NĐ-CP chưa cụ thể, rõ ràng. Theo quy định tại khoản 1 Điều 38
Nghị định số 158/2005/NĐ-CP, thì người thay đổi, cải chính hộ tịch; xác định
lại dân tộc; xác định lại giới tính phải xuất trình bản chính giấy khai sinh. Quy
định này trên thực tế khó thực hiện, bởi lẽ đa số các trường hợp rơi vào
trường hợp này đều mất giấy khai sinh bản chính, nếu thực hiện đúng theo
tinh thần của Nghị định 158/2005/NĐ-CP người dân sẽ bị bế tắc. Bộ Tư pháp
có hướng dẫn, trong trường hợp bản chính giấy khai sinh của đương sự bị

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét