Như đã nói ở trên,NHNN trực tiếp điều hành và quản lý dự trữ ngoại hối nhằm
mục đích ngăn ngừa ngắn hạn quá lớn về tỷ giá,do hậu quả của một số biến động
trên thị trường. Vì vậy mục đích của việc quản lý dự trữ ngoại hối là để đảm bảo
cho một quốc gia luôn luôn trong trạng thái có thể thanh toán các khoản nợ đúng
hạn và có thể giải quyết những dao động về tỷ gia ngoại hối trong ngắn hạn.Đồng
thời sử dụng chính sách ngoại hối như một công cụ có hiệu lực để thực hiện chính
sách tiền tệ, thông qua mua bán ngoại hối trên thị trường để can thiệp vào tỷ giá khi
cần thiết,nhằm ổn định giá trị đối ngoại của đồng tiền.
3.2.Bảo tồn dự trữ ngoại hối Nhà nước
Là cơ quan quản lý tài sản quốc gia, NHNN phải quản lý dự trữ ngoại hối nhà
nước nhưng không chỉ bảo quản và cất giữ mà còn biết sử dụng để phục vụ cho đầu
tư phát triển kinh tế, luôn bảo đảm an toàn không bị ảnh hưởng rủi ro về tỷ giá ngoại
tệ trên thị trường quốc tế .Vì thế NHNN cần phải mua, bán, chuyển đổi để phát
triển, chống thất thoát,xói mòn quỹ dự trữ ngoại hối của nhà nước, bảo vệ độc lập
chủ quyền về tiền tệ.
3.3.Cải thiện cán cân thanh toán quốc tế
Cán cân thanh toán quốc tế thể hiện thu-chi của một nước với nước ngoài.Khi
cán cân thanh toán quốc tế bội thu,lượng ngoại tệ chảy vào trong nước dẫn đến khả
năng cung ứng về ngoại tệ cao hơn nhu cầu. Ngựơc lại , khi cán cân thanh toán quốc
tế bội chi, tăng lượng ngoại tệ chạy ra nước ngoài dẫn đến nhu cầu ngoại tệ cao hơn
khả năng cung ứng.
Vì thế,mục đích của quản lý dự trữ ngoại hối để đảm bảo cho một quốc gia
luôn luôn trong trạng thái có thể thanh toán các khoản nợ đúng hạn và có thể giải
quyết những giao động về tỷ giá ngoại hối trong ngắn hạn.
4. Cơ chế quản lý ngoại hối
4.1. Cơ chế tự do tỷ giá
Điều này có nghĩa là ngoại hối được tự do lưu thông trên thị trường,cân bằng
ngoại hối do thị trường quyết định mà không có sự can thiệp của nhà nước,do vậy tỷ
Trang 5
giá-giá cả ngoại hối phù hợp với sức mua của đồng tiền trên thị trường.Tỷ giá thả
nổi dẫn đến lãi suất,luồng vốn vào và ra hoàn toàn do thị trường chi phối.
4.2. Cơ chế quản lý tỷ giá
4 .2.1. Cơ chế nhà nước thực hiện quản lý hoàn toàn
Theo cơ chế này nhà nước độc quyền ngoại thương và độc quyền ngoại hối.
Nhà nước thực hiện các biện pháp hành chính áp đặt nhằm tập trung tất cả hoạt
động ngoại hối vào tay mình . Tỷ giá do nhà nước quy định mà tất cả các giao dịch
ngoại hối phải chấp hành, các tổ tham gia hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu nếu
bị lỗ do tỷ giá thì sẽ được nhà nước cấp bù , ngược lại nếu lãi thì nộp cho nhà nước .
Cơ chế này thích hợp với nền kinh tế tập trung.
4.2.2 Cơ chế quản lý tỷ giá có điều tiết
Cơ chế quản lý hoàn toàn, nhà nước có thể áp đặt khống chế được thị trường ,
ngăn chặn ảnh hưởng từ bên ngoài , chủ động khai thác được nguồn vốn bên trong .
Tuy nhiên , trong nền kinh tế thị trường , cách quản lý này sẽ không phù hợp , cản
trở và gây khó khăn cho nền kinh tế . Để khắc phục sự áp đặt ,nhà nước đã tiến hành
điều tiết nhưng đã gắn với thị trường , nhà nước tiến hành kiểm soát một mức độ
nhất định để nhằm phát huy tính tích cực của thị trường , hạn chế nhược điểm do thị
trường gây ra , tạo điều kiện cho kinh tế trong nước phát triển và ổn định ,ngăn chặn
ảnh hưởng từ bên ngoài.
5. Hoạt động ngoại hối của NHNN
5.1 Hoạt động mua bán ngoại hối
NHNN tham gia vào hoạt động mua , bán ngoại hối với tư cách là người can
thiệp , giám sát , điều tiết nhưng đồng thời cũng là người mua , bán cuối cùng
.Thông qua việc mua bán, NHNN thực hiện giám sát và điều tiết thị trường theo
mục tiêu của chính sách tiền tệ,đồng thời theo dõi diễn biến tỷ giá đồng bản tệ để
chủ động quyết định hoặc phối hợp với các NHNN các nước khác củng cố sức mua
đồng tiền hay đồng tiền khác để đảm bảo trật tự trong quan hệ quốc tế có lợi cho
nước mình.
5.1.1.Mua bán trên thị trường trong nước
Trang 6
NHNN tiến hành mua,bán với các ngân hàng thương mại tại hội sở trung ương
của các ngân hàng thương mại mà không trực tiếp mua- bán với các công ty kinh
doang xuất nhập khẩu.Tỷ giá hối đoái do NHNN công bố. Ở đây NHNN sử dụng
một phần dự trữ để bán cho các ngân hàng thương mại và mua ngoại tệ của các ngân
hàng thương mại đưa vào dự trữ.Thông qua việc mua bán,NHNN thực hiện cung
ứng tiền tệ hoặc rút bớt khỏi lưu thông,trên cơ sở đó ổn định tỷ giá hối đoái của
đồng tiền bản tệ.
Việc giao dịch,mua bán của NHNN với các ngân hàng thương mại trên thị
trường hối đoái chủ yếu được thực hiện thông qua hệ thống điện thoại,telex hoặc hệ
thống computer có nối mạng giữa NHNN với các ngân hàng thương mại.
Ngoài ra NHNN cũng có thể hoạt động thông qua việc mua bán trực tiếp với
khách hàng không phải là doang nghiệp như các cơ quan hành chính hoặc các tổ
chức khác.
5.1.2. Mua bán trên thị trường quốc tế
Với nhiệm vụ quản lý dự trữ ngoại hối NHNN thực hiện mua bán trên thị
trường quốc tế nhằm bảo tồn và phát triển quỹ dự trữ ngoại hối.NHNN phải tính
toán gửi ngoại hối ở nước nào có lợi mà vẫn đảm bảo an toàn,nghiên cứu lãi suất
thực tế và xu hướng tăng lên của lãi suất ngoại tệ để kinh doanh có lãi.
Qua mua, bán ngoại hối có chênh lệch giá thì phần chênh lệch đó hình thành
lợi nhuận của ngân hàng.
NHNN thực hiện việc mua bán ngoại hối sẽ tác động trực tiếp vào tiền NHNN.
Nghiệp vụ này ảnh hưởng đến dự trữ ngoại hối,ảnh hưởng đến tỷ giá hối đoái. Như
vậy NHNN thông qua mua bán ngoại tệ có thể can thiệp nhằm đạt được tỷ giá mong
muốn.
5.2. Hoạt động quản lý ngoại hối của NHNN
NHNN thực hiện các hoạt động ngoại hối khác như:
- Quản lý, điều hành thị trường ngoại hối,thị trường ngoại tệ liên ngân
hàng,bằng cách đưa các quy chế gia nhập thành viên,quy chế hoạt động,quy định
giới hạn tỷ giá mua bán ngoại tệ trên thị trường
Trang 7
- Tham gia xây dựng các dự án pháp luật và ban hành các văn bản hướng dẫn
thi hành luật về quản lý ngoại hối. NHNN được giao nhiệm vụ ban hàng các thông
tư hướng dẫn cụ thể để phục vụ cho việc quản lý của mình được thống nhất.
- Cấp giấy phép và thu hồi giấy phép hoạt động ngoại hối. Dựa vào luật pháp
và điều kiện cụ thể trong từng thời gian, NHNN đưa ra các quy định cần thiết để cấp
giấy phép cho các đơn vị, tổ chức, cá nhân có hoạt động ngoại hối.
- Kiểm tra giám sát việc xuất nhập khẩu ngoại hối của các tổ chức tín dụng.
- Biên lập cán cân thanh toán.
Chương II
THỰC TRẠNH HOẠT ĐỘNG QUẢN LÝ NGOẠI HỐI NHỮNG
NĂM ĐẦU THẾ KỶ 21.
Trang 8
Bước sang thế kỷ mới, quốc hội khoá X đã ra nghị quyết số 55/2001 xác
định các chỉ tiêu kinh tế chủ yếu của kế hoạch phát triển kinh tế 5 năm 2001 - 2005,
bao gồm:
- Nhịp độ tăng trưởng GDP bình quân hàng năm 7,5%
- Giá trị sản xuất nông, lâm, ngư nghiệp tăng 4,8%/ năm
- Giá trị sản xuất ngành công nghiệp tăng 13,1%/ năm
- Tổng kim ngạch xuất khẩu tăng 14- 15%/ năm
………….
Ngành ngân hàng, với nhiệm vụ trọng tâm là xây dựng và thực hiện chính
sách tiền tệ, nhằm phục vụ ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát, thúc đẩy sản
xuất và tiêu dùng, kích thích đầu tư, tạo điều kiện cho tăng trưởng kinh tế cao và
bền vững. NHNN đã xây dựng các chỉ tiêu tiền tệ - tín dụng trong kế hoạch 5 năm
2001 - 2005 như sau:
- Tốc độ tăng trưởng bình quân tổng phương tiện thanh toán 22%/năm
- Tốc độ tăng vốn huy động 20- 25%/năm
- Tốc độ tăng dư nợ cho vay nền kinh tế 22%/năm
Hoạt động quản lý ngoại hối là một mặt họat động rất quan trọng của ngành
Ngân hàng. Nó góp phần đắc lực trong việc thực hiện thắng lợi các mục tiêu chính
sách tiền tệ, giữ ổn định giá trị đối nội, đối ngoại của đồng tiền Việt Nam. Thông
qua công cụ lãi suất, công cụ tỉ giá…., nó thu hút vốn đầu tư của nước ngoài vào
nước ta, khuyến khích xuất khẩu và kiểm soát nhập khẩu, góp phần làm thăng bằng
cán cân thanh toán quốc tế.
A. Những mặt tích cực trong hoạt động quản lý ngoại hối:
Trên lộ trình hội nhập kinh tế quốc tế, chính sách quản lý ngoại hối không
ngừng được đổi mới để phù hợp với thông lệ quốc tế và thích ứng với cơ chế kinh tế
thị trường có sự quản lý của Nhà nước. Trong nửa đẩu kế hoạch 5 năm 2001 - 2005,
công tác quản lý ngoại hối đã thu được những kết quả đáng khích lệ:
1. Về chính sách lãi suất ngoại tệ
Trang 9
Từ ngày 03/01/ 2001 đến ngày 25/6/2003, Cục Dự trữ liên bang Mỹ (FED)
đã 13 lần hạ lãi suất chủ đạo từ 6,5% xuống 1%/năm. Lãi suất khu vực đồng Euro
giảm từ 2,5% xuống còn 2%/năm. Lãi suất Sibor cũng giảm. Lãi suất quốc tế giảm
đã ảnh hưởng lớn đến việc điều hành chính sách lãi xuất trong nước.
Những tháng đầu năm 2001, lãi suất cho vay ngoại tệ của các NHTM Việt
Nam đối với cho vay ngắn hạn là dựa trên cơ sở lãi suất Sibor 3 tháng + 1%/năm;
đối với cho vay trung dài hạn là lãi suất Sibor 6 tháng + 2,5%/năm.
Theo dõi diễn biến tình hình tiền tệ quốc tế, từ 01/06/2001, NHNN xoá bỏ cơ
sở dựa vào lãi suất Sibor, cho phép các tổ chức tín dụng căn cứ vào lãi suất thị
trường quốc tế và quan hệ cung cầu vốn ngoaị tệ trong nước để thoả thuận với
khách vay ngoại tệ mức lãi suất cho vay. Xét về thực chất, động thái này là việc tự
do hoá lãi suất cho vay ngoại tệ - một bước ngoặt cơ bản của NHNN về chính sách
lãi suất.
Năm 2002, lãi suất tiền gửi ngoại tệ của các tổ chức tín dụng được điều chỉnh
theo các mức: Không kỳ hạn: 1,2%/năm; 3 tháng: 1,4%/năm; 6 tháng : 1,6?%/năm;
12 tháng: 2,2%/năm (mức này xê dịch tuỳ theo từng ngân hàng). Lãi suất cho vay
ngoại tệ ngắn hạn của các NHTM phổ biến ở mức 3,5 - 4,5%/năm; trung dài hạn ở
mức 4,5%/năm.
Riêng đối với lãi suất tiền gửi ngoại tệ của các pháp nhân tại các tổ chức tín
dụng, NHNN vẫn tiếp tục khống chế ở mức thấp: không kỳ hạn 1%/năm, có kỳ hạn
đến 6 tháng là 1,5%/năm, trên 6 tháng 2%/năm, nhằm hạn chế việc găm giữ USD
trên tài khoản.
Nói chung lãi suất ngoại tệ trong 2 năm 6 tháng vừa qua (từ 01/01/2001 -
30/6/2003) chịu ảnh hưởng của biến động lãi suất quốc tế và tỉ lệ dự trữ bắt buộc
(DTBB) bằng ngoại tệ do NHNN quy định từng thời kỳ.
Do tác động của lãi suất, tốc độ tăng huy động vốn nói chung của toàn hệ
thống ngân hàng Việt Nam năm 2002 đạt 19,4%/năm, thấp hơn so với tốc độ tăng
25,1% của năm 2001. Nguyên nhân do lãi suất tiền gửi ngoại tệ thấp dẫn đến tốc độ
tăng huy động vốn ngoại tệ chỉ đạt 5,6% (2001 là 25,98%). Trong khi đó, lãi suất
tiền gửi VND duy trì ở mức cao (loại kỳ hạn 12 tháng từ 0,62 - 0,67%/tháng, tương
đương 8,04%/năm) khiến nhiều người giữ tiết kiệm bằng ngoại tệ đã chuyển sang
Trang 10
VND. Kết quả là, năm 2002, vốn huy động bằng VND tăng 29,22%, cao hơn so với
tốc độ tăng 24,4% năm 2001.
Tốc độ tăng trưởng tín dụng (dư nợ) năm 2002 đạt 22,2%. Trong đó tín dụng
bằng ngoại tệ tăng mạnh 25,13% so với mức tăng 12,7% của năm 2001. Tín dụng
ngoại tệ tăng chủ yếu do lãi suất cho vay ngoại tệ thấp (do ảnh hưởng của lãi suất
quốc tế ). Thậm chí có doanh nghiệp vay vốn ngoại tệ không đưa vào sản xuất, kinh
doanh mà lại bán ra thị trường tự do lấy VND gửi vào ngân hàng hưởng lãi suất cao
(có thời điểm lãi suất tiền gửi VND cao gấp 3 - 4 lần lãi suất tiền gửi ngoại tệ)
2. Về chính sách tỉ giá
Biên độ tỉ giá được nới rộng từ ± 0,1% năm 2001 lên ± 0,25% năm 2002.
Động thái này của NHNN đã tạo hành lang pháp lý thông thoáng hơn cho các tổ
chức tín dụng kinh doanh mua bán ngoại tệ. Sự điều hành tỉ giá theo quy luật cung
cầu ngoại tệ có tính đến khả năng cạnh tranh tỉ giá giữa các ngoại tệ mạnh (USD,
Euro, Yên…) đã phản ánh ngày càng toàn diện hơn mối quan hệ giữa VND với
ngoại tệ các nước có quan hệ thương mại, vay nợ, đầu tư với Việt Nam. Qua đó, tỉ
giá VND không đơn thuần gắn với USD như trước mà gắn với cả "một rổ tiền tệ"
nên giữ được thế tương đối ổn định. Cụ thể là, năm 2001 tỉ giá USD/VND tăng
3,8%, năm 2002 tăng 2,1%, 6 tháng đầu năm 2003 chỉ tăng 2,6%.
3. Về công cụ dự trữ bắt buộc
Năm 2000 và những tháng đầu năm 2001, lãi suất tiền gửi ngoại tệ còn cao,
vốn ngoại tệ chảy vào ngân hàng nhiều. Để ngăn chặn tình trạng đô la hoá tài sản nợ
của các tổ chức tín dụng, từ tháng 5/2001, NHNN đã nâng tỉ lệ DTBB ngoại tệ từ
12% lên 15%. Do tri phí đầu vào cao, xu hướng tăng trưởng vốn huy động ngoại tệ
giảm dần. Đến tháng 10/2001, do ảnh hưởng của lãi suất quốc tế, lãi suất ngoại tệ
trong nước giảm mạnh, gây khó khăn cho tình hình tài chính của các tổ chức tín
dụng, NHNN đã điều chỉnh tỉ lệ DTBB từ 15% xuống 10%, sang 2002 xuống còn
8% và có chiều hướng còn tiếp tục giảm để phù hợp với chính sách nới lỏng tín
dụng.
4. Về chính sách kết hối
3 năm trở lại đây, trong điều kiện cung cầu ngoại tệ không còn căng thẳng, tỉ
giá USD/VND tương đối ổn định, Chính phủ đã từng bước giảm tỉ lệ kết hối đối với
Trang 11
các tổ chức kinh tế có thu ngoại tệ từ 80% xuống 50%, 40%, 30% và hiện nay là
0%.
Việc giảm tỉ lệ kết hối xuống 0% là bước đi quan trọng trong chủ chương tự
do hoá giao dịch vãng lai, phù hợp với thông lệ quốc tế. Giảm tỉ lệ kết hối xuống 0%
không ảnh hưởng tới khả năng đáp ứng ngoại tệ của ngân hàng cho các doanh
nghiệp có nhu cầu ngoại tệ để nhập khẩu. Bởi vì 2 năm gần đây, lãi suất USD giảm
xuống rất thấp, các doanh nghiệp giữ USD trên tài khoản chỉ được hưởng lãi suất
1%/năm. Trong khi đó tỉ giá USD/ VND tương đối ổn định, lãi suất tiền gửi VND
cao hơn USD.
Điêù này cũng khuyến khích các doanh nghiệp có thu ngoại tệ bán hết số
ngoại tệ thu được cho ngân hàng để lấy VND. Làm như vậy, các doanh nghiệp vừa
có tiền chủ động chi trả chi phí hoạt động kinh doanh, vừa được hưởng lãi suất tiền
gửi VND cao. Từ thực tiễn này có thể rút ra kết luận: Nếu tỉ giá hợp lý thì không
cần chính sách kết hối; việc mua bán ngoại tệ không còn bị ràng buộc mà được tự
do hoá, sẽ thúc đẩy thị trường ngoại hối phát triển mạnh mẽ và sôi động.
5. Về quy định trạng thái ngoại tệ
Để hạn chế rủi ro trong kinh doanh ngoại tệ của các tổ chức tín dụng, ngày
07/10/2002, Thống đốc NHNN đã ban hành quy định mới về trạng thái ngoại tệ
(TTNT) của các tổ chức tín dụng được phép kinh doanh ngoại tệ (trừ các ngân hàng
liên doanh và các chi nhánh ngân hàng nước ngoài hoạt động trên đất Việt Nam).
Quy định mới không quy định trạng thái ngoại tệ riêng cho USD mà chỉ quy
định giới hạn tổng TTNT dương và tổng TTNT âm vào cuối ngày làm việc của tất
cả các loại ngoại tệ mà tổ chức tín dụng có hoạt động kinh doanh không được vượt
quá 30% vốn tự có của tổ chức tín dụng đó. Như vậy quy định mới về TTNT đã tạo
điều kiện cho các tổ chức tín dụng được phép kinh doanh ngoaị hối linh hoạt hơn
trong giới hạn về cơ cấu và tỉ trọng các loại ngoại tệ, nhất là đối với USD.
6. Về chính sách kiều hối
Vài ba năm trở lại đây, Chính phủ và NHNN có những chính sách thông
thoáng hơn nhằm khuyến khích kiều bào chuyển tiền về nước: Mức thu phí dịch vụ
kiều hối ngày càng giảm.
Trang 12
Nếu như trước đây, người nhận kiều hối bắt buộc phải bán toàn bộ ngoại tệ
cho ngân hàng theo tỉ giá quy định, chỉ được nhận nội tệ, thì nay họ được nhận bằng
ngoại tệ hoặc bán cho ngân hàng lấy tiền VN, hoặc gửi ngoại tệ theo thể thức tiết
kiệm tại ngân hàng. NHNN đã mở rộng mạng lưới làm dịch vụ kiều hối tạo thuận
lợi cho việc giao dịch của khách hàng.
Năm 2000 số kiều hối gửi về qua hệ thống ngân hàng là 1.717 triệu USD ,
tương đương với 12,2% kim ngạch xuất khẩu. Năm 2001, lượng kiều hối lên tới
1.820 triệu USD. Theo NHNN, 6 tháng đầu năm 2003, lượng kiều hối chuyển về
nước qua hệ thống ngân hàng là 1.100 triệu USD, tăng 12% so với cùng kỳ năm
ngoái . Theo ước tính, trong năm nay lượng kiều hối sẽ vượt con số 2.400 triệu USD
của năm 2002.
Lượng kiều hối gửi về dồi dào đã đem lại nhiều lợi ích : Các NHTM có
nguồn vốn ngoại tệ lớn đầu từ cho các dự án trọng điểm của Chính phủ; cho vay các
doanh nghiệp đẩy mạnh kinh doanh xuất nhập khẩu; góp phần cải thiện cán cân
thanh toán quốc tế của Việt Nam , góp phần tăng dự trữ ngoại tệ quốc gia.
B. Những yếu kém, bất cập trong hoạt động quản lý ngoại hối:
1. Về điều hành chính sách lãi suất:
Trong một thời gian dài giữa lãi suất nội tệ và lãi suất ngoại tệ đã có một
khoảng chênh lệch quá lớn, đã làm nảy sinh sự chuyển dịch vốn của khách hàng từ
nội tệ sang ngoại tệ và ngược lại. Ngân hàng bỏ ra nhiều công sức mà không được
thu được lợi, lại tạo cơ hội và kẽ hở cho những người có nhiều tiền gửi và những
doanh nghiệp khôn ngoan kiếm lời bằng chênh lệch lãi suất.
2. Về điều hành chính sách tỉ giá
Biên độ giao dịch tỉ giá quá hẹp trong một thời gian dài đã hạn chế doanh số
mua bán ngoại tệ của các tổ chức tín dụng.
Công cụ tỉ giá và công cụ lãi suất ngoại tệ có khi diễn biến ngược chiều: lãi
suất ngoại tệ diễn ra theo xu hướng giảm trong khi tỉ giá giữa USD/VND vẫn tăng
(tuy ở mức độ hẹp), đã gây ra tâm lý khách hàng găm giữ ngoại tệ hoặc tránh vay
ngoại tệ về tỉ giá.
Trang 13
Nghiệp vụ hoán đổi ngoại tệ (SWAP) tuy có tác dụng giải quyết tình trạng
khan hiếm VND cho các tổ chức tín dụng, song lãi suất SWAP quá cao, các ngân
hàng thương mại được cung cấp nghiệp vụ này kêu ca nhiều.
Thị trường ngoại hối phát triển còn chậm, thanh toán bằng ngoại tệ tiền mặt
còn phổ biến hối đoái chủ yếu là giao ngay (SPOT). Giao dịch kỳ hạn (FORWARD)
còn hạn chế. Giao dịch quyền chọn (OPTION) trước 30/6/2003 hầu như chưa có.
3. Về công cụ dự trữ bắt buộc:
Thời điểm và thời hạn tăng giảm DTBB chưa thực sự phù hợp với diễn biến
của thị trường ngoại tệ.
4. Về dịch vụ kiều hối
Là một trong những nhân tố chủ yếu làm nghiêm trọng thêm tình trạng đô la
hoá nền kinh tế. NHNN chưa có biện pháp hữu hiệu kiểm soát lượng ngoại tệ rất lớn
đang trôi nổi ngoài thị trường.
5. Về nguồn nhân lực
Trình độ và chất lượng đội ngũ cán bộ kinh doanh ngoại hối nhất là ở cấp cớ
sở đang còn hạn chế về quản lý điều hành, về tác nghiệp và về ngoại ngữ trước yêu
cầu ngoại nhập.
Chương III
Trang 14
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét