Thứ Tư, 19 tháng 2, 2014

575 Tình hình phát triển kinh tế & vị thế của nền kinh tế EU trên thế giới & đối với Việt Nam hiện nay

thức ký Hiệp ước Schengen. Hai nước Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha ký ngày
25/6/1991. Ngày 26/3/1995, Hiệp ước này mới có hiệu lực tại 7 nước thành
viên. Hiệp ước quy định quyền tự do đi lại của công dân các nước thành viên.
Đối với công dân nước ngoài chỉ cần có visa của 1 trong 9 nước trên là được
phép đi lại trong toàn bộ khu vực Schengen. Hiện nay, 14/15 nước thành
viên EU đã tham gia khu vực Schengen (trừ Anh).
Hiệp ước Nice (7-11/12/2000): tập trung vào vấn đề cải cách thể chế để đón
nhận các thành viên mới đồng thời tăng cường vai trò của Nghị viện châu Âu,
thành lập Lực lượng phản ứng nhanh (RRF).
Theo luật của EU, Hiệp ước Nice cần được nghị viện của tất cả các nước
thành viên thông qua mới có hiệu lực. Hiện nay, quá trình này đang được tiến
hành trong các quốc gia thành viên.
1.3. Cơ cấu tổ chức
EU có bốn cơ quan chính là : Hội đồng Bộ trưởng, Uỷ ban châu Âu, Nghị
viện châu Âu, Toà án châu Âu.
Hội đồng Bộ trưởng :
Chịu trách nhiệm quyết định các chính sách lớn của EU, bao gồm các Bộ
trưởng đại diện cho các thành viên. Các nước luân phiên làm Chủ tịch với nhiệm
kỳ 6 tháng. Giúp việc cho Hội đồng có Uỷ ban đại diện thường trực và Ban
Tổng Thư ký.
Từ năm 1975, người đứng đầu Nhà nước, hoặc Chính phủ, các Ngoại
trưởng, Chủ tịch và Phó Chủ tịch Uỷ ban châu Âu có các cuộc họp thường kỳ để
bàn quyết định những vấn đề lớn của EU. Cơ chế này gọi là Hội đồng châu Âu
hay Hội nghị Thượng đỉnh EU.
Uỷ ban Châu Âu :
Là cơ quan điều hành gồm 20 Uỷ viên, nhiệm kỳ 5 năm do các Chính phủ
nhất trí cử và chỉ bị bãi miễn với sự nhất trí của Nghị viện Châu Âu. Chủ tịch
hiện nay là ông Rô man nô Prô đi, cựu Thủ tướng Italia (được bầu tại cuộc họp
Thượng đỉnh EU bất thường ngày 23/3/1999 tại Berlin). Dưới các Uỷ viên là các
Tổng Vụ trưởng chuyên trách từng vấn đề, từng khu vực.
5
Nghị viện Châu Âu :
Gồm 732 Nghị sĩ, nhiệm kỳ 5 năm, được bầu theo nguyên tắc phổ thông
đầu phiếu. Trong Nghị viện các Nghị sĩ ngồi theo nhóm chính trị khác nhau,
không theo Quốc tịch.
Chức năng: thông qua ngân sách, cùng Hội đồng Châu Âu quyết định trong
một số lĩnh vực, kiểm tra, giám sát việc thực hiện các chính sách của EU, có
quyền bãi miễn các chức vụ uỷ viên Uỷ ban châu Âu.
Toà án Châu Âu :
Đặt trụ sở tại Lúc- xăm- bua, gồm 15 thẩm phán và 9 trạng sư, do các chính
phủ thoả thuận bổ nhiệm, nhiệm kỳ 6 năm. Toà án có vai trò độc lập, có quyền
bác bỏ những quy định của các tổ chức của Uỷ ban Châu Âu văn phòng Chính
phủ các nước nếu bị coi là không phù hợp với luật của EU.
6
Chương 2. Tình hình phát triển nền kinh tế EU
2.1. Những thành tựu về kinh tế của EU
Liên minh châu Âu ngày càng lớn mạnh về nhiều mặt, đặc biệt hội tụ đông
đảo các nền kinh tế phát triển (chiếm khoảng 1/3 GDP toàn cầu). Lãnh thổ EU
trải rộng hơn 4 triệu kilômét vuông với dân số gần 500 triệu người. Để có được
sự hợp nhất trong suốt 50 năm qua, nguyên tắc hành động của liên minh là hợp
tác và liên kết vì lợi ích giữa các dân tộc châu Âu. Liên minh chú trọng tăng
cường nền dân chủ, hòa bình, phồn vinh và đóng góp vào sự giàu mạnh.
Năm mươi năm trôi qua, EU đã có được một nền hòa bình và thịnh vượng.
Mỗi nước thành viên của EU đều đóng góp vào sự thống nhất châu Âu và sự ổn
định của nền dân chủ ở đây. Sự vắng bóng của những cuộc xung đột giữa các
quốc gia thành viên là một minh chứng sống động cho sự liên kết chặt chẽ này.
Với 27 nước thành viên, EU ngày nay đã trở thành động cơ hòa bình trên thế
giới.
Dân chủ, một trong những giá trị chung của EU đã được phát huy mạnh mẽ
tại châu lục này. Những bản sắc văn hóa và truyền thống đa dạng của các nước
thành viên EU đều được trân trọng và đón nhận. Các đường biên giới nội khối
được rộng mở, di sản văn hóa của toàn châu Âu thêm phong phú. Một châu Âu
giàu có về vốn hiểu biết và kinh nghiệm chính là chìa khóa của sự tăng trưởng
mạnh, việc làm và sự hoà hợp xã hội. Người dân EU được sống bình đẳng, đầy
đủ quyền tự do đi lại, học tập và sinh sống thuận lợi trong toàn liên minh.
Sự phồn vinh đã đến với liên minh khi người dân ở đây được hưởng mức
sống với những tiêu chuẩn xã hội cao. EU đã thành công khi tạo dựng hình mẫu
xã hội châu Âu công bằng và dân chủ. Không những thế, khối thị trường chung
dần phát triển thành thị trường duy nhất - khu vực trao đổi thương mại rộng lớn
nhất trên thế giới. Đồng ơ-rô là biểu tượng thành công cho tiến trình nhất thể
7
hóa kinh tế của EU, mang đến cho người dân EU những cơ hội tốt nhất trong
việc lựa chọn sản phẩm với giá cả cạnh tranh.


2.1.1. Lạm phát
Tỷ lệ lạm phát khá bình ổn và không cao, cụ thể: Lạm phát ở khu vực sử
dụng đồng tiền chung châu Âu (Eurozone) đến tháng 9/2006 là 1,7. Trong số các
nước thành viên của Eurzone, Phần Lan là nước có tỷ lệ lạm phát thấp nhất
(0,8%) trong khi 2 nền kinh tế lớn nhất khu vực là Đức và Pháp có tỷ lệ lạm phát
lần lượt là 1% và 1,5%.
2.1.2. Tăng trưởng kinh tế của Liên minh châu Âu
Nói đến EU chúng ta nghĩ đến một nền kinh tế hùng mạnh, một trong 3 đầu
tàu của kinh tế thế giới (Mỹ, EU, Nhật Bản). Mỗi sự thay đổi nhỏ trong nền kinh
tế của các nước này đều gây ảnh hưởng đến kinh tế của các nước khác ngoài khu
vực. Ta có thể điểm qua tình hình tăng trưởng kinh tế trong nhưng năm gần đây
nhất của EU như sau:
Thứ nhất, là tình hình tăng trưởng kinh tế trong năm 2006. Năm 2006,
kinh tế Liên minh Châu Âu cải thiện rõ rệt. Theo đánh giá của Cao uỷ phụ trách
các vấn đề kinh tế tiền tệ của EU, châu Âu đang ngày càng ít phụ thuộc hơn vào
nền kinh tế Mỹ. Tăng trưởng kinh tế của EU25 đạt 2,8%, cao hơn 1,1% so với
năm 2005. Đây là mức tăng trưởng cao nhất kể từ đầu thế kỷ XXI đến nay. Sự
tăng vọt của đầu tư kinh doanh và nhu cầu tiêu dùng nội địa tăng mạnh là động
lực chính của bùng nổ kinh tế hiện nay. Trong đó tăng trưởng kinh tế thuộc khu
vực đồng Euro đạt 2,6% năm 2006, cao hơn 1,2% so với năm 2005. Nền kinh tế
tăng trưởng mạnh đã giúp EU cải thiện được tình trạng thất nghiệp xuống còn
8%, tạo thêm khoảng 5 triệu viậc làm mới trong khu vực đồng Euro trong giai
đoạn 2006-2008 và khoảng 2 triệu việc làm trong toàn EU. Ngoài sự năng động
của nền kinh tế, các yếu tố khác như sự ổn định về lương và năng suất tăng cũng
góp phần cải thiện tình trạng thất nghiệp trong EU.
8
Tình trạng tài chính của chính phủ cũng được cải thiện nhờ thu nhập từ
thuế tăng vọt. Tỷ lện thâm hụt công trung bình của EU25 và khu vực đồng tiền
Euro ở mức thấp 2% GDP (ngoại trừ các nước như Séc, Hungari, Italia, Bồ đào
nha và Xlô-va-ki-a có mức thâm hụt trên 3%GDP). Trong khi đó , lạm phát của
EU giảm xuống còn 2,12%, đáp ứng mục tiêu của Ngân hàng Trung ương châu
Âu đề ra.
Thứ hai, đó là tình hình kinh tế châu Âu năm 2007. Năm 2007 kinh tế châu Âu
khởi đầu với một nền tảng kinh tế khá vững: tỷ lệ thất nghiệp tháng 10/06 giảm
xuống mức thấp nhất kể từ khi số liệu này được thu thập năm 1993 là 7,5% và
lòng tin tiêu dung ở mức cao. Những yếu tố này đã góp phần thu hẹp khoản cách
về tốc độ tăng trưởng kinh tế giữa châu Âu cà Mỹ.
Tuy nhiên, số liệu Chính phủ Mỹ công bố ngày 31/1/2007 cho thấy tốc độ tăng
trưởng của kinh tế Mỹ năm 2006 (ước đạt 3,4%) tiếp tục vượt châu Âu một đoạn
khá xa. Từ năm 1993 đến nay, tăng trưởng kinh tế của Eurozone chỉ vượt Mỹ
trong hai năm 2000 và 2001, khi đó châu Âu được lại từ việc bùng nổ Internet
cuộc thế kỷ trước. Trong dài hạn, Mỹ sẽ duy trì vị trí đứng đầu về tăng trưởng
kinh tế toàn cầu, đặc biệt là khi dân số châu Âu đang già đi và theo qui định hạn
chế nhập cư là giảm số lao động năng động.
Nhưng theo thông tin mới nhất vào tháng 7/2007, ba viện kinh tế hàng đầu châu
Âu là Insee (Pháp), Ifo (Đức), Isae (Italia)vừa công bố báo cáo, trong đó dự báo
kinh tế khu vực đồng tiền chung châu Âu gồm 13 nước thành viên sẽ tăng
trưởng 3% năm 2007
Môi trường kinh doanh không ngừng khởi sắc đang tạo ra xu thế tăng trưởng
khả quan cho ngành công nghiệp Eurozone; đàu tư ngày càng bùng nổ đang
củng cố triển vọng sáng sửa của nền kinh tế Eurozone trị giá 8.000tỷ Euro, sau
khi khu vực này đạt mức tăng yếu ớt trong quý I/2007, do ảnh hưởng của việc
Đức tăng thuế giá trị gia tăng (VAT) từ 16% lên 19% kể từ đầu tháng 1/07 và
chi tiêu tiêu dung trong khối giảm sút.
9
Theo dự báo của Liên minh châu Âu (EU), nền kinh tế chu vực này sẽ còn tiếp
tục tăng trưởng với mức dự kiến cao hơn 2%. EU đang phấn đấu đạt mục tiêu
tăng trưởng đề ra là 2,6% trong năm 2007 và 2,5% trong năm 2008.
2.1.3. Vấn đề hệ thống tiền tệ của châu Âu tác động đến nền kinh tế các
nước nội khối và thế giới
a. Đối với các nước EU
 Tác động tích cực:
- Hình thành một khối kinh tế vững mạnh, một thị trường rộng lớn với nền kinh
tế gần tương với Mỹ
- Đồng EURO ra đời:
+ Thúc đẩy sự phát triển kinh tế của các nước EU, góp phần hoàn thiện thị
trường chung châu Âu, gỡ bỏ những hàng rào phi quan thuế còn lại giữa các
nước thành viên.
+ Tạo điều kiện thuận lợi cho việc hoạch định một chính sách tài chính vĩ mô
cho liên minh.
+ Giảm sự chênh lệch giá hay sự phức tạp về tỷ giá hối đoái giữa các đồng tiền
quốc gia.
+ Đẩy mạnh buôn bán nội khối, ít bị ảnh hưởng xấu do sự giao động tỷ giá của
đồng USD
 Tác động tiêu cực :
+Gây khó khăn trong việc phối hợp chính sách kinh tế tiền tệ, làm cho các nước
tham gia EMU mất đi công cụ để điều tiết nền kinh tế.
+ Các nước có trình độ phát triển là khác nhau nên sẽ gặp khó khăn trong việc
duy trì được một đồng EURO mạnh.
+ Các nước thành viên luôn phải phấn đấu đảm bảo các chỉ tiêu EMU áp đặt,
buộc chính phủ các nước này phải có những chính sách ngặt nghèo trong ngân
sách chi tiêu, chính sách thuế
b. Đối với thế giới: Tạo sự thay đổi lớn trong hệ thống tiền tệ thế giới
Về dự trữ ngoại tệ:
10
- Khi EURO ra đời, ngoại thương của các nước tham gia sẽ trở thành nội
thương, nợ giữa các nước thành viên sẽ trở thành nợ bên trong, vì vậy nhu cầu
về dự trữ ngoại tệ của Ngân hàng Trung ương châu Âu sẽ giảm mạnh.
- EURO ra đời, các nước trên thế giới sẽ giảm bớt một phần dự trữ bằng đồng
USD để mua thêm đồng EURO.
Về ngoại thương:
- Trao đổi trong nội bộ khối EU trước đây sử dụng nhiều USD nay chuyển sang
thanh toán bằng đồng EURO sẽ làm cho kim ngạch thanh toán bằng đồng đô la
Mỹ bị giảm sút đáng kể.
- Giao dịch ngoại thương trên thế giới sẽ có thêm một đồng tiền giao dịch sẽ làm
giảm nhu cầu sử dụng USD trong thương mại thế giới.
2.2. Vị thế của nền kinh tế EU trên thế giới
Cùng với Hoa Kỳ, EU được coi là một đối tác quan trọng trong quan hệ
hợp tác kinh tế, cụ thể là quan hệ đầu tư và thương mại của nhiều quốc gia trên
thế giới. Trong đó không thể kể đến các nước thuộc khu vực Đông Nam Á, bao
gồm Việt Nam, một nước nhận khá nhiều vốn FDI cũng như nguồn ODA từ EU.
- Đồng Euro đã trở thành đồng tiền mạnh ngang với đồng đô-la, được coi
là một trong những đồng tiền mạnh có khả năng chuyển đổi cao trong rổ tiền tệ
quốc tế. Trước đây khi ý tưởng sử dụng đồng tiền chung châu Âu mới được bắt
đầu thực hiện thì giá trị của đồng Euro nhỏ hơn đồng USD rất nhiều. Nhưng cho
đến giờ phút này thì đồng Euro đã vượt xa rất nhiều so với đồng USD. Điều này
cũng phần nào phản ánh được sức tăng trưởng, sức bật của nền kinh tế EU so
với các khu vực khác trên thế giới. Đồng Euro ngày càng được khẳng định là
một đồng tiền mạnh và là một phương tiện thanh toán phổ biến hơn.
Với việc một số quốc gia thuộc EU tham gia vào các tổ chức quốc tế, phần
nào thể hiện tầm quan trọng và sự ảnh hưởng của EU trong việc xây dựng các
Hiệp định, Hiệp ước, và Hệ thống pháp luật quốc tế.
- Quy mô kinh tế của Liên hiệp châu Âu đứng thứ hai thế giới (chiếm
khoảng 25% GDP toàn thế giới), sau Mỹ. Về thương mại, EU chiếm 19,4% giá
trị hàng hoá và 24,3% dịch vụ tổng giá trị thương mại thế giới năm 2002. Tình
11
hình kinh tế nói trên của EU và của các nước trong khối đã và đang tác động sâu
sắc quan hệ kinh tế thương mại giữa EU và các nước trên thế giới, đặc biệt là
các nước đang phát triển, trong đó có Việt Nam.
2.3. Những triển vọng của nền kinh tế EU
Theo dự đoán của cơ quan thống kê EU (Eurostat), tăng trưởng kinh tế khu
vực này trong quý I 2007 (0,6%) giảm nhẹ so với quý IV năm 2006. Trong quý
IV năm ngoái tăng trưởng kinh tế của 13 quốc gia dùng đồng tiền chung châu
Âu đứng ở mức 0,9%. Nếu tính theo năm, trong 3 tháng đầu năm nay kinh tế
khu vực đồng tiền chung châu Âu tăng 3,1% trong khi con số này được ghi nhận
trong quý IV năm ngoái là 3,3%, mức cao kỷ lục trong 6 năm qua. Tuy nhiên
ước tính của cục thống kê châu âu vẫn khả quan hơn so với những dự đoán của
chuyên gia kinh tế, theo đó tốc độ tăng trưởng kinh tế của khu vực đồng euro
quý I/2007 là 0,5% và mức tăng trưởng cả năm tính trên quý I năm 2007 là 3%.
Các phân tích cho thấy sự giảm tốc này một phần là do thuế giá trị gia tăng ở
Đức tăng. Chính điều này làm nền kinh tế lớn nhất trong khối giảm tốc độ tăng
trưởng theo quý từ 1,0% xuống 0,5% trong 3 tháng đầu của năm 2007. Tuy
nhiên điều này tác động không nhiều như người ta lo ngại. Trong khi đó, Pháp,
nền kinh tế lớn thứ 2 trong khu vực châu âu, duy trì ở mức tăng trưởng khiêm
tốn là 0,5% theo quý, bằng quý cuối cùng của năm ngoái. Tỷ lệ tăng trưởng
hàng năm là 2,0%, thấp hơn so với mức ghi nhận trong 3 tháng trước là 0,2%.
Nền kinh tế Italia, nền kinh tế lớn thứ 3 trong khu vực cũng giảm mạnh xuống
còn 0,2% theo quý, sau khi đạt được tỷ lệ 1,1% trong quý trước. Nền kinh tế của
27 nước châu âu cũng hạ nhiệt, giảm từ 0,9% xuống 0,6% tro ng ba tháng đầu
năm nay. Mặc dù có sự giảm sút, nhưng khu vực đồng tiền chung châu âu và
liên minh châu âu vẫn vượt Mỹ. Trong quý đầu tiên của năm 2007, kinh tế Mỹ
tăng 0,3% so với quý trước và tăng 2,1% so với cùng kỳ năm ngoái. Uỷ ban
châu âu đã đưa ra dự đoán tăng trưởng kinh tế trong năm 2007 cho toàn khu vực
đồng tiền chung châu Âu và cho cả khối liên minh châu âu. Khu vực châu âu dự
đoán tăng 2,6%, trong khi cả liên minh châu tăng 2,9%.
12
Trong quý II, kinh tế của EU tăng trưởng chậm lại. GDP của EU gồm 27
nước thành viên cũng chỉ tăng 0,5% trong quý II/07 sau khi tăng 0,7% trong quý
I/07. Tăng trưởng kinh tế của Eurozone và EU trong quý II/07 đạt lần lượt 2,5%
và 3,3%, so với mức tăng 3,1% và 3,3% cùng kỳ năm 2006.
Các nền kinh tế Đức và Pháp đều có mức tăng trưởng thấp hơn dự đoán là
0,3% trong quý II/07. GDP của Đức - nền kinh tế lớn nhất EU - đã ở mức thấp
nhất kể từ năm 2005, còn GDP của Pháp cũng ở mức thấp nhất kể từ năm 2003.
Anh và Pháp đều duy trì tỷ lệ lạm phát thấp hơn, với lạm phát của Pháp trong
tháng 7/07 là 1,1% và lạm phát của Anh đã giảm xuống 1,9% -mức giảm mạnh
nhất trong 5 năm qua.
Những biến động trên các thị trường thế giới gần đây đã khiến ban phụ
trách các vấn đề tài chính kinh tế của Ủy ban châu Âu điều chỉnh giảm nhẹ dự
báo tăng trưởng kinh tế trong Eurozone xuống 0,3-0,8% trong quý III/07 và 0,2-
0,8% trong quý IV/07. Mặc dù có một số suy giảm nhẹ trong nền kinh tế như
vậy nhưng EU vẫn được các tổ chức thế giới đánh giá cao về tăng trưởng kinh tế
trong giai đoạn này và tới năm 2020
Đây là nhận định của Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF), ngân hàng thế giới (WB)
và nhóm các nước công nghiệp phát triển (G7). Báo cáo của IMF công bố trong
dịp họp Hội nghị Mùa Xuân với WB từ ngày 14/4, dự báo kinh tế thế giới tăng
trưởng 4,9% năm 2007 và 4,8% năm 2008, so với mức tăng trưởng 5,3% năm
2006. Kinh tế Mỹ sẽ tránh đựơc cuộc khủng hoảng và có thể thoát khỏi tình
trạng thị trường nhà ế ẩm hiện nay; dự báo tăng trưởng 2,2% năm nay và tăng
2,8% năm tới
Trong khi kinh tế Mỹ phát triển chậm lại, các nền kinh tế lớn EU đã đưa ra
những dự báo lạc quan về tăng trưởng. Theo Uỷ ban châu Âu (EC) năm nay
kinh tế EU tăng trưởng 2.7%. Khu vực sử dụng đồng tiền chung Euro đã đạt
mức tăng trưởng 2.6% năm 2006, mức tăng cao nhất trong 6 năm qua, so với
mức tăng 1.4% năm 2005.
Kinh tế Pháp dự báo đạt mức tăng trưởng 2-2,5% trong năm nay và năm
2008; sẽ tạo thêm 230.000 việc làm mới năm 2007 và sức mua tăng 2,5% trong
13
năm 2008. Thâm hụt ngân sách nhà nước sẽ giảm xuống 2,4% trong năm 2007
và 1,7% trong năm 2008, so với mức thâm hụt 2,6% năm 2006.
IMF đã nâng mức dự báo tăng trưởng kinh tế Anh từ mức 2,7% lên mức
2,9% năm nay, so với mức tăng 2,7% năm 2006. IMF cho rằng kinh tế Anh đã
duy trì đà tăn trưởng ấn tượng.
Theo dự báo tình hình kinh tế thế giới đến năm 2020 thì kinh tế EU dự báo
sẽ tăng trưởng khoảng 2%/năm trong giai đoạn 2006-2020 sau khi ổn định ở
mức dưới 2% trong suốt một thập kỷ qua. Tốc độ tăng trưởng GDP tại các nước
thành viên gia nhập EU năm 2004 sẽ vào khoảng 3,5%/năm trong giai đoạn
2006-2020, tương đương mức trung bình của thế giới. Mặc dù tăng trưởng cao
hơn, dự báo kinh tế của các nước thành viên mới ở Đông Âu vẫn chưa thể bắt
kịp các nước EU15. Thu nhập bình quân đầu người của những nước thành viên
mới sẽ chỉ tăng từ mức dưới 50% thu nhập bình quân của EU15 vào thời điểm
2004 lên 60% vào năm 2020. Trong giai đoạn 2011-2020, năng suất lao động
của EU dự báo có thể tăng trở lại do nhiều nền kinh tế châu Âu đang tiến hành
cải cách thị trường lao động và cải cách thuế.
14

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét