Thứ Ba, 18 tháng 2, 2014
343 Nghiên cứu kinh nghiệm quốc tế về dịch vụ hậu cần và những bài học rút ra cho Việt Nam
1
Lời mở đầu
Trong thời đại ngày nay, khi nền kinh tế thế giới càng phát triển thì quá
trình phân công lao động càng trở nên sâu sắc. Quá trình hội nhập kinh tế khu
vực và quốc tế ở mức cao đòi hỏi sự phân công lao động phải đợc mở rộng và
trở thành hoạt động mang tính toàn cầu.
Khi phân công lao động ngày càng sâu sắc, quá trình chuyên môn hóa
sản xuất hàng hóa và cung ứng dịch vụ cả ở phạm vi quốc gia và quốc tế sẽ
càng phát triển. Khi đó, mỗi quốc gia, mỗi doanh nghiệp muốn duy trì và nâng
cao thị phần của mình cần phải đa ra thị trờng các sản phẩm thích hợp, tại
địa điểm thích hợp, vào thời điểm thích hợp và với giá cạnh tranh. Để đạt đợc
mục tiêu này, các doanh nghiệp cần thực hiện tốt các khâu: Cung ứng và thu
mua hàng hóa, bảo quản và dự trữ hàng hóa, giao nhận, vận chuyển và tiếp thị
tiêu thụ sản phẩm Nói cách khác, để phát triển hoạt động kinh doanh, doanh
nghiệp cần có sản phẩm thích hợp đa ra thị trờng với chất lợng tốt nhất,
đợc đa đến địa điểm chính xác nhất, vào đúng thời điểm ngời tiêu dùng có
nhu cầu và điều quan trọng là sản phẩm phải đợc chào bán với giá cả cạnh
tranh nhất. Mặt khác, doanh nghiệp cần tạo cho mình một cơ chế quản lý thông
tin thích hợp nhằm kiểm soát tất cả mọi công đoạn trong quá trình di chuyển
của sản phẩm, hàng hóa và các dịch vụ có liên quan kể từ khâu đặt hàng đến
khâu giao nhận vận chuyển, bảo quản và dự trữ hàng hóa, đa hàng hóa tới tay
ngời tiêu dùng và thanh toán tiền hàng.
Nh vậy, toàn bộ các khâu từ cung ứng vật t cho sản xuất đến việc lu
giữ, bảo quản, dự trữ, vận chuyển hàng hóa và quản lý thông tin có liên quan
tạo nên một hệ thống dịch vụ hậu cần của doanh nghiệp với mục tiêu đáp ứng
yêu cầu của khách hàng. Tuy nhiên, mỗi doanh nghiệp không thể tự làm hết và
thực hiện một cách hiệu quả tất cả các công đoạn của hệ thống dịch vụ nêu trên
và từ đó xuất hiện các doanh nghiệp chuyên kinh doanh một số loại dịch vụ
nhất định trong hệ thống nh: Dịch vụ vận tải, dịch vụ kho bãi để bảo quản và
dự trữ hàng hóa, dịch vụ giao nhận
Từ khi thực hiện chính sách mở cửa và hội nhập kinh tế quốc tế, nhu
cầu mua bán, trao đổi hàng hóa và dịch vụ ở Việt Nam là rất lớn. Vì vậy, việc
tổ chức các doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ hậu cần (đặc biệt là các dịch vụ
phục vụ phát triển hoạt động thơng mại nh: Dịch vụ vận tải, dịch vụ giao
nhận, dịch vụ kho bãi để bảo quản và dự trữ hàng hóa) là yêu cầu hết sức cần
thiết.
Tuy nhiên, hiện nay hệ thống dịch vụ hậu cần của Việt Nam còn nhiều
bất cập do cơ sở vật chất yếu kém, trình độ chuyên môn hóa cha cao, khả
năng của hệ thống kho bãi cha đủ đáp ứng yêu cầu của việc bảo quản, dự trữ,
giao nhận, vận chuyển một khối lợng hàng hóa lớn. Mặt khác, số doanh
nghiệp tham gia kinh doanh dịch vụ hậu cần hiện đang có quy mô nhỏ, chỉ
thực hiện đợc một phần hay một bộ phận trong hệ thống dịch vụ hậu cần tổng
thể, thiết bị bảo quản và dự trữ hàng hóa còn lạc hậu, tốc độ trung chuyển hàng
2
hóa chậm, cha có các doanh nghiệp chuyên môn hóa kinh doanh dịch vụ hậu
cần đủ mạnh. Đặc biệt, Nhà nớc cũng cha có quy chế cụ thể để việc quản lý
các dịch vụ hậu cần đạt hiệu quả cao.
Trong xu thế hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay, khi phân công lao động
quốc tế đã đạt trình độ cao, nhiều nớc trên thế giới đã phát triển dịch vụ hậu
cần nhằm tạo cơ sở cho thơng mại phát triển. Để thực hiện quá trình hội nhập
kinh tế quốc tế, tự do hóa thơng mại, Việt Nam cần phát triển các dịch vụ hậu
cần để thúc đẩy phát triển thơng mại nội địa cũng nh thơng mại với nớc
ngoài.
Nhận thức rõ đợc tầm quan trọng của vấn đề nêu trên, Chính phủ và các
Bộ, Ngành, đặc biệt là Bộ Thơng mại đang rất quan tâm đến việc phát triển
dịch vụ hậu cần nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho thơng mại phát triển và đáp
ứng yêu cầu của quá trình toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế.
Xuất phát từ những lý do cơ bản nêu trên, Bộ Thơng mại đã duyệt và
cho phép tổ chức nghiên cứu Đề tài:Nghiên cứu kinh nghiệm quốc tế về dịch
vụ hậu cần và những bài học rút ra cho Việt Nam.
Mục tiêu chính của đề tài là:
- Nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực tiễn về dịch vụ hậu cần
- Nghiên cứu chính sách, kinh nghiệm của một số nớc trên thế giới về
phát triển dịch vụ hậu cần và từ đó rút ra bài học kinh nghiệm cho Việt Nam.
- Đề xuất khả năng vận dụng các kinh nghiệm phát triển dịch vụ hậu cần
của các nớc và các giải pháp chủ yếu để phát triển dịch vụ hậu cần ở Việt
Nam trong thời gian tới.
Đối tợng nghiên cứu của Đề tài là:
- Các dịch vụ hậu cần phục vụ phát triển thơng mại nội địa và xuất
nhập khẩu nh: Dịch vụ vận chuyển, dịch vụ giao nhận, dịch vụ bảo quản và dự
trữ hàng hóa
- Các chính sách và cơ chế quản lý của các nớc và của Việt Nam đối
với việc phát triển dịch vụ hậu cần.
Do giới hạn về thời gian và điều kiện nghiên cứu, về nội dung, Đề tài tập
trung nghiên cứu một số dịch vụ hậu cần chủ yếu phục vụ phát triển thơng
mại nội địa và xuất nhập khẩu nh: Dịch vụ vận chuyển, dịch vụ giao nhận,
dịch vụ kho bãi để bảo quản và dự trữ hàng hóaCác lĩnh vực dịch vụ hậu cần
khác đợc đề cập đến nh các yếu tố hỗ trợ cho dịch vụ hậu cần phát triển một
cách toàn diện và hiệu quả.
Về không gian và thời gian, Đề tài tập trung nghiên cứu kinh nghiệm ở
một số nớc trên thế giới có dịch vụ hậu cần phát triển và ở Việt Nam từ 2000
đến 2010.
3
Các phơng pháp nghiên cứu chủ yếu đợc sử dụng là:
- Phơng pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử
- Phơng pháp điều tra, khảo sát, thu thập thông tin, t liệu
- Phơng pháp tổng hợp, phân tích, so sánh
- Tham khảo ý kiến chuyên gia và hội thảo chuyên đề
Ngoài phần mở đầu, kết luận và phụ lục, Đề tài đợc kết cấu thành 3 chơng
Chơng I: Một số vấn đề lý luận về dịch vụ hậu cần (Logistics)
Chơng II: Kinh nghiệm phát triển dịch vụ hậu cần của một số nớc
trên thế giới và thực trạng phát triển dịch vụ hậu cần ở Việt
Nam
Chơng III: Một số giải pháp chủ yếu nhằm phát triển dịch vụ hậu cần
ở Việt Nam
4
CHƯƠNG I
Một số vấn đề lý luận về dịch vụ hậu cần
I - tổng quan về dịch vụ hậu cần
1 - Khái niệm về dịch vụ hậu cần
Dịch vụ hậu cần (Logistics) theo nghĩa đang sử dụng trên thế giới có
nguồn gốc từ từ Logistique trong tiếng Pháp, đợc sử dụng bắt đầu từ thế kỷ
thứ 19.
Ban đầu, dịch vụ hậu cần đợc sử dụng nh một từ chuyên môn trong
quân đội, đợc hiểu với nghĩa là công tác hậu cần. Sau này dịch vụ hậu cần dần
đợc áp dụng trong các lĩnh vực kinh tế, đợc lan truyền từ châu lục này sang
châu lục kia, từ nớc này sang nớc khác, hình thành nên hệ thống dịch vụ hậu
cần trên phạm vi toàn cầu.
Dịch vụ hậu cần đã phát triển rất nhanh chóng. Nếu giữa thế kỷ thứ 20,
rất hiếm doanh nhân hiểu đợc dịch vụ hậu cần là gì, thì đến cuối thế kỷ này,
dịch vụ hậu cần đợc ghi nhận nh một chức năng kinh tế chủ yếu, một công
cụ hữu hiệu mang lại thành công cho các doanh nghiệp cả trong khu vực sản
xuất hàng hóa lẫn trong khu vực sản xuất dịch vụ.
Dịch vụ hậu cần hiện đợc các học giả, các nhà nghiên cứu định nghĩa
theo nhiều cách khác nhau.
- Theo tài liệu của ủy ban Kinh tế và Xã hội châu á - Thái Bình Dơng
của Liên hiệp quốc (UNESCAP), dịch vụ hậu cần đợc coi là việc quản lý
dòng lu chuyển hàng hoá từ nơi xuất xứ đến nơi tiêu thụ cuối cùng theo yêu
cầu của khách hàng.
- Theo tài liệu giảng dạy của trờng Đại học Hàng hải thế giới (World
Maritime University), Dịch vụ hậu cần là quá trình quản lý việc lu chuyển có
hiệu quả hàng hóa, dịch vụ từ nơi xuất xứ đến nơi tiêu thụ cuối cùng vì mục
đích đáp ứng yêu cầu của khách hàng.
Một tài liệu khác của Trờng Đại học này lại nêu ra định nghĩa: Dịch
vụ hậu cần là một quá trình đợc tính toán, tổ chức nhằm giảm chi phí đến mức
thấp nhất về việc xác định địa điểm chuyển dịch và lu kho các nguồn cung
cấp từ nơi xuất xứ, thông qua nhiều hoạt động khác nhau đến nơi tiêu thụ cuối
cùng.
5
ở đây, họ cho rằng dịch vụ hậu cần không phải chỉ là một hoạt động mà
nó bao gồm một chuỗi các hoạt động xảy ra trong một quá trình; việc tìm
nguyên vật liệu, hàng hoá không phải chỉ ở một địa điểm mà phải tìm nó ở một
tập hợp các điểm cung ứng; khi có nguồn cung cấp phải dịch chuyển nó, tập
trung nó ở các kho và thông qua nhiều hoạt động sản xuất, chế biến để mang
đến nơi tiêu thụ cuối cùng.
- Theo Hội đồng quản trị Dịch vụ hậu cần Hoa Kỳ (The US. Logistics
Administration Council) thì Dịch vụ hậu cần là quá trình thực hiện và quản lý
dòng lu chuyển hàng hoá từ nơi sản xuất đến nơi tiêu thụ một cách hiệu quả
và tiết kiệm chi phí nhằm thỏa mãn yêu cầu của khách hàng.
Thực chất, dịch vụ hậu cần là một hình thức kết hợp các khâu của quá
trình sản xuất và tiêu thụ theo hớng tối u hóa nhằm giảm bớt các chi phí
không cần thiết để hạ giá thành sản phẩm và đảm bảo giá cả cạnh tranh.
- Theo định nghĩa của tác giả Ma Shuo trong cuốn sách Logistics and
Supply Chain Management, xuất bản năm 1999 thì Dịch vụ hậu cần là quá
trình lu chuyển hàng hoá từ điểm xuất phát đầu tiên là nhà cung cấp, qua
ngời bán buôn, bán lẻ, đến nơi tiêu thụ cuối cùng thông qua hàng loạt các
hoạt động kinh tế.
Định nghĩa này cho thấy, dịch vụ hậu cần không phải là một hoạt động
đơn lẻ mà là một chuỗi các hoạt động liên tục, có liên quan mật thiết với nhau,
tác động qua lại lẫn nhau, đợc thực hiện một cách khoa học và có hệ thống
qua các bớc nghiên cứu, hoạch định, tổ chức, quản lý, thực hiện, kiểm tra,
kiểm soát và hoàn thiện. Đây là quá trình liên quan tới nhiều hoạt động khác
nhau trong cùng một tổ chức, từ xây dựng chiến lợc đến các hoạt động chi
tiết, cụ thể để thực hiện chiến lợc.
Mặt khác, với khái niệm nh nêu ở trên, nó cho phép các tổ chức, các
doanh nghiệp có thể vận dụng vào lĩnh vực hoạt động của mình một cách sáng
tạo, linh hoạt, với hiệu quả kinh tế cao nhất.
ở Việt Nam, trong tài liệu Logistics - Những vấn đề cơ bản, NXB Thống
kê năm 2003, PGS. TS. Đoàn Thị Hồng Vân đã định nghĩa một cách khái quát:
Dịch vụ hậu cần là quá trình tối u hoá các hoạt động vận chuyển và dự trữ
hàng hoá từ nơi sản xuất đến nơi tiêu thụ cuối cùng thông qua hàng loạt các
hoạt động kinh tế.
- Theo Tạp chí Giao nhận kho vận của Hiệp hội Giao nhận kho vận Việt
Nam, tác giả Nguyễn Thâm cho rằng: Dịch vụ hậu cần là nghệ thuật tổ chức,
điều hành một tập hợp các hoạt động dịch vụ liên quan đến quá trình lu
6
chuyển sản phẩm, hàng hoá từ nơi sản xuất đến nơi tiêu thụ cuối cùng nhằm
giảm tổng chi phí và đáp ứng tốt nhất yêu cầu của khách hàng. Nghệ thuật tổ
chức, điều hành đó luôn luôn thay đổi để thích ứng với sự vận động và phát
triển không ngừng của hoạt động thơng mại trong nền kinh tế thị trờng.
Cùng với các định nghĩa vừa đợc nêu và phân tích ở trên, trong thực tế
tồn tại một số định nghĩa khác nh:
- Dịch vụ hậu cần là hệ thống các công việc đợc thực hiện một cách có
kế hoạch nhằm quản lý nguyên vật liệu, hàng hoá, thông tin và dòng chảy của
vốn
- Dịch vụ hậu cần là việc lập kế hoạch, tổ chức thực hiện và kiểm soát
quá trình lu chuyển và dự trữ hàng hóa, dịch vụ từ điểm xuất phát đầu tiên
đến nơi tiêu thụ cuối cùng sao cho hiệu quả và phù hợp với yêu cầu của khách
hàng.
Cũng cần nhấn mạnh rằng: Trớc đây, các nớc trên thế giới vẫn thờng
sử dụng thuật ngữ Logistics để chỉ hệ thống dịch vụ hậu cần nh đã định
nghĩa ở trên nên nó vẫn còn là khá xa lạ, mới mẻ đối với phần lớn ngời Việt
Nam. Do cha tìm đợc thuật ngữ thống nhất, phù hợp nên nhiều ngời đã dịch
sang tiếng Việt một cách khác nhau nh: Dịch vụ tiếp vận, dịch vụ hỗ trợ vận
tải, hoặc tổ chức dịch vụ cung ứng, quản lý kho bãi
Tại kỳ họp thứ 7 - Khoá XI - Quốc hội nớc Cộng hoà XHCN Việt Nam
ngày 14/6/2005 đã thông qua Luật Thơng mại (sửa đổi năm 2005) trong đó có
quy định cụ thể khái niệm về dịch vụ Logistics. Tại điều 233 - Mục 4 - Chơng
VI của Luật Thơng mại ngày 14/6/2005, quy định Dịch vụ Logistics là hoạt
động thơng mại, theo đó thơng nhân tổ chức thực hiện một hoặc nhiều công
việc bao gồm: Nhận hàng, vận chuyển, lu kho, lu bãi, làm thủ tục Hải quan,
các thủ tục giấy tờ khác, t vấn khách hàng, đóng gói, bao bì, ghi ký mã hiệu,
giao hàng hoặc các dịch vụ khác có liên quan đến hàng hoá theo thoả thuận
với khách hàng để hởng thù lao. Dịch vụ Logistics đợc phiên âm tiếng Việt
là Lô - g i- stíc.
Đây là cơ sở pháp lý hết sức quan trọng để điều chỉnh hoạt động kinh
doanh các dịch vụ Lô - gi - stíc của các doanh nghiệp trên phạm vi toàn quốc
và cũng là cơ sở quan trọng phục vụ cho việc nghiên cứu và hoạch định chính
sách đối với từng dịch vụ trong hệ thống dịch vụ Lô - gi- stíc.
7
2 - Phân loại dịch vụ hậu cần
a - Phân loại dịch vụ hậu cần
Căn cứ vào các tiêu chí khác nhau, ngời ta có thể phân loại dịch vụ hậu
cần một cách khác nhau.
- Nếu căn cứ vào phạm vi không gian, ngời ta có thể phân loại dịch vụ
hậu cần thành: Dịch vụ hậu cần toàn cầu (Global Logistics) và dịch vụ hậu cần
quốc gia.
- Nếu căn cứ vào phạm vi hoạt động trong nền kinh tế, có thể phân loại
dịch vụ hậu cần thành: Dịch vụ hậu cần tổng thể và dịch vụ hậu cần hẹp (có
tính chất chuyên ngành).
- Nếu căn cứ vào chủ thể tham gia, ngời ta có thể phân dịch vụ hậu cần
thành:
+ Dịch vụ hậu cần bên thứ nhất
Ngời chủ sở hữu hàng hóa tự tổ chức và thực hiện các dịch vụ hậu cần
thơng mại để đáp ứng yêu cầu của mình.
Hình thức dịch vụ hậu cần này đợc áp dụng phổ biến ở Việt Nam thời
kỳ trớc những năm 1990, khi đó các nhà sản xuất tự vận chuyển hàng hoá, tự
tổ chức giao nhậnđể thực hiện việc tiêu thụ sản phẩm, hàng hoá của mình.
+ Dịch vụ hậu cần bên thứ hai
Ngời cung cấp dịch vụ hậu cần là ngời cung cấp dịch vụ cho một hoạt
động đơn lẻ (vận chuyển, giao nhận, kho bãi, dự trữ) trong hệ thống dịch vụ
hậu cần. Hình thức dịch vụ hậu cần này đợc áp dụng phổ biến ở Việt Nam
hiện nay, khi các doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ hậu cần nớc ta cha đủ
mạnh để tổ chức đồng bộ các dịch vụ trong hệ thống các dịch vụ hậu cần.
+ Dịch vụ hậu cần bên thứ ba
Ngời cung cấp dịch vụ hậu cần bên thứ ba là ngời thay mặt cho chủ
hàng quản lý và thực hiện các dịch vụ hậu cần. Do vậy, dịch vụ hậu cần bên thứ
ba tích hợp các dịch vụ khác nhau, kết hợp chặt chẽ việc lu chuyển hàng hoá
và xử lý thông tin trong dây chuyền cung ứng.
Hình thức dịch vụ hậu cần bên thứ ba đợc áp dụng phổ biến ở các nớc
có kinh tế phát triển.
+ Dịch vụ hậu cần bên thứ t
Ngời cung cấp dịch vụ hậu cần bên thứ t là ngời tích hợp, chịu trách
nhiệm quản lý, thực hiện quản trị cả quá trình lu chuyển của dòng hàng hóa
8
nh: Nhận hàng từ nơi sản xuất, làm thủ tục xuất nhập khẩu, đa hàng đến nơi
tiêu thụ cuối cùng.
Hình thức dịch vụ hậu cần bên thứ t đợc áp dụng phổ biến ở các nớc
có các Công ty, tập đoàn kinh doanh Logistics đủ mạnh, có phạm vi hoạt động
và hệ thống văn phòng đại diện hay các công ty con ở nhiều nớc trên thế giới.
Nh vậy, căn cứ vào các tiêu chí khác nhau ngời ta có thể phân chia
dịch vụ hậu cần thành nhiều loại khác nhau, có phạm vi điều chỉnh rộng hẹp
khác nhau, trong phạm vi một quốc gia, khu vực hoặc toàn cầu.
b - Một số lĩnh vực dịch vụ hậu cần phục vụ quá trình phát triển
thơng mại nội địa và xuất nhập khẩu
Trong lĩnh vực thơng mại, dịch vụ hậu cần là các dịch vụ phục vụ quá
trình lu chuyển và dự trữ hàng hóa từ điểm xuất phát đầu tiên đến nơi tiêu thụ
cuối cùng sao cho hiệu quả và phù hợp với yêu cầu của khách hàng.
Theo quan niệm của ủy ban Quản trị Logistics quốc tế, các dịch vụ hậu
cần phục vụ quá trình phát triển thơng mại nội địa và xuất nhập khẩu bao gồm
mọi dịch vụ liên quan đến vận chuyển hàng hoá (bằng đờng biển, đờng bộ,
đờng hàng không, đờng thủy nội địa), lu kho, lu bãi, sắp xếp hàng hóa
sẵn sàng cho quá trình vận chuyển, bao bì đóng gói, ghi kí hiệu, nhãn hiệu và
phân phối đi các nơi khác theo yêu cầu của ngời ủy thác.
Các dịch vụ này phản ánh sự di chuyển hàng hóa của một tổ chức
(ngời sản xuất, kinh doanh hay bất kì một ngời nào khác có hàng hóa). Nó
bao gồm sự vận chuyển hàng hóa bằng các loại phơng tiện khác nhau, từ địa
điểm này sang địa điểm khác, từ nớc nọ sang nớc kia nhằm đảm bảo lu
chuyển hàng hóa một cách liên tục từ kho của ngời sản xuất đến nơi tiêu thụ
cuối cùng.
Nh vậy dịch vụ hậu cần phục vụ quá trình phát triển thơng mại có vai
trò hết sức quan trọng mà nếu thiếu nó thì toàn bộ quá trình lu chuyển hàng
hóa, dịch vụ sẽ không thể thực hiện một cách nhịp nhàng và liên tục đ
ợc.
Nói cách khác, dịch vụ hậu cần phục vụ quá trình phát triển thơng mại
thực chất là việc tổ chức và quản lý quá trình vận chuyển hàng hóa qua nhiều
công đoạn, chặng đờng, phơng tiện và địa điểm khác nhau. Các hoạt động
này phải tuân thủ sự thống nhất và liên tục của dây chuyền: Vận chuyển - lu
kho - phân phối và phải đáp ứng yêu cầu của tính kịp thời.
Quá trình phát triển thơng mại (cả thơng mại trong nớc và xuất nhập
khẩu) sẽ không thể thực hiện đợc nếu không có sự hỗ trợ của các dịch vụ hậu
cần. Dịch vụ vận chuyển đóng vai trò quan trọng để đa hàng hóa từ nơi cung
9
cấp đến nơi tiêu thụ; dịch vụ giao nhận giúp cho việc thu gom hàng hóa để đa
lên phơng tiện vận tải và nhận hàng hóa từ các phơng tiện vận tải đa đến
nơi tiêu thụ cuối cùng; dịch vụ dự trữ hàng hóa giúp cho việc lu thông một
loại hàng hóa nào đó đợc bình thờng
Thừa nhận vai trò của dịch vụ hậu cần trong phát triển thơng mại nội
địa và xuất nhập khẩu nên các nớc trên thế giới rất chú trọng phát triển các
dịch vụ này.
Các dịch vụ chính trong dịch vụ hậu cần thơng mại là:
Dịch vụ vận chuyển:
Dịch vụ vận chuyển là hoạt động kinh tế có mục đích của con ngời
nhằm hoán chuyển vị trí của hàng hóa và bản thân con ngời từ nơi này đến nơi
khác bằng các phơng tiện vận tải.
Nếu xét trong phạm vi toàn bộ nền kinh tế, dịch vụ vận chuyển là
ngành dịch vụ quan trọng với các đặc điểm chủ yếu sau:
- Thứ nhất: Dịch vụ vận chuyển là quá trình tác động về mặt không
gian lên đối tợng chuyên chở chứ không phải là quá trình tác động về mặt
kinh tế lên đối tợng đó.
- Thứ hai: Sản phẩm của dịch vụ vận chuyển là vô hình: Sản phẩm của
dịch vụ vận chuyển không có hình dạng, kích thớc cụ thể, không tồn tại độc
lập ngoài quá trình sản xuất mà nó đợc hình thành và tiêu thụ ngay trong quá
trình sản xuất. Khi kết thúc dịch vụ vận chuyển thì sản phẩm của nó cũng đợc
tiêu thụ ngay (cho nên ngời ta có thể qui nó vào khái niệm để tính toán nh:
Tấn, tấn/km, m3/km).
- Thứ ba: Dịch vụ vận chuyển có vai trò đặc biệt quan trọng trong hoạt
động của các dịch vụ hậu cần. Vai trò này sẽ ngày càng tăng thêm, bởi chi phí
cho vận chuyển chiếm tỷ trọng ngày càng lớn trong tổng chi phí dịch vụ hậu
cần. Do đó, hiệu quả hoạt động của dịch vụ vận chuyển sẽ có ảnh hởng trực
tiếp đến hiệu quả của hoạt động kinh doanh và khả năng cạnh tranh của doanh
nghiệp trên thơng trờng. Theo kết quả nghiên cứu của các nhà kinh tế Mỹ,
cho đến những năm 80 của thế kỷ 20, hàng năm, nền công nghiệp Mỹ chi
khoảng 700 tỷ USD cho việc vận chuyển vật t
, nguyên, vật liệu phục vụ phát
triển sản xuất.
Vì dịch vụ vận chuyển có tầm quan trọng nh vậy nên các nhà quản trị
không chỉ quan tâm đến chi phí vận chuyển của tổ chức mình mà còn chú ý
đến chi phí vận chuyển của đối thủ cạnh tranh, bởi chi phí này có ảnh hởng
lớn đến khả năng cạnh tranh của cả hai tổ chức. Chẳng hạn: Hai nớc Thái Lan
10
và Việt Nam cùng xuất khẩu gạo. Đối với một số loại gạo thì chất lợng và giá
thành gạo của hai nớc gần nh tơng đơng, nhng do Thái Lan có điều kiện
vận chuyển thuận lợi hơn Việt Nam (do vị trí địa lý, về đội tàu, về cảng biển)
dẫn đến chi phí vận chuyển gạo xuất khẩu của Thái Lan thấp hơn chi phí vận
chuyển gạo xuất khẩu của Việt Nam.
Hiện nay, vận chuyển là dịch vụ không thể thiếu của mọi loại hình doanh
nghiệp. Để đảm bảo cho hoạt động sản xuất, kinh doanh đợc diễn ra một cách
bình thờng, ngời ta luôn phải vận chuyển nguyên, vật liệu đến và vận chuyển
thành phẩm đi. Trong các ngành khác nhau, tỷ trọng của chi phí cho dịch vụ
vận chuyển trong tổng chi phí của doanh nghiệp có thể rất khác nhau.
Ví dụ: ở một số Công ty Mỹ, trong các ngành luyện kim, chế biến gỗ,
xi măng, hóa chất chi phí vận chuyển có thể chiếm từ 20 - 40% giá thành
sản phẩm, còn trong các công ty điện lực và dợc phẩm thì chi phí vận chuyển
chỉ chiếm 1%. Nhng cho dù ở mức cao hay thấp thì chi phí vận chuyển cũng
là khoản chi không thể thiếu trong tổng chi phí sản xuất, kinh doanh của các
doanh nghiệp. Và ngay cả khi không xét đến vấn đề chi phí, thì vận chuyển vẫn
có vai trò rất quan trọng đối với hoạt động của doanh nghiệp. Nếu không có
dịch vụ vận chuyển, việc cung cấp vật t sẽ không thực hiện đợc tại đúng nơi,
vào đúng lúc thì sản xuất sẽ gián đoạn, không thể tiến hành liên tục, nhịp
nhàng, dẫn đến các hậu quả nghiêm trọng. Chính vì vậy, các nhà quản trị
doanh nghiệp luôn quan tâm đến việc cân nhắc, lựa chọn xem nên sử dụng
phơng thức vận chuyển nào, ngời thực hiện dịch vụ vận chuyển là ai và lộ
trình vận chuyển nh thế nàođể có đợc quyết định phù hợp nhằm nâng cao
hiệu quả hoạt động của mình.
Trong hoạt động thơng mại nội địa và xuất nhập khẩu, dịch vụ vận
chuyển là dịch vụ mà ngời ta sử dụng các phơng tiện vận tải khác nhau để
đa hàng hóa đến nơi tiêu thụ cuối cùng. Hàng hóa chỉ có thể di chuyển từ nơi
sản xuất đến nơi tiêu thụ nhờ dịch vụ vận chuyển. Vì thế, dịch vụ vận chuyển
đóng vai trò rất quan trọng trong dịch vụ hậu cần thơng mại.
Cùng với hoạt động của các loại dịch vụ hậu cần th
ơng mại khác, dịch
vụ vận chuyển cũng góp phần làm gia tăng giá trị cho sản phẩm. Trớc hết,
dịch vụ vận chuyển đáp ứng yêu cầu của khách hàng về mặt vị trí. Rõ ràng, sản
phẩm, hàng hoá chỉ có giá trị khi nó đến đợc tay ngời tiêu dùng và nếu vận
chuyển hàng hóa đến đợc đúng nơi ngời tiêu dùng yêu cầu tức là giá trị hàng
hóa đã đợc tăng thêm. Kế nữa, dịch vụ vận chuyển có khả năng đáp ứng yêu
cầu của khách hàng về mặt thời gian. Chính việc lựa chọn phơng thức vận tải
và cách tổ chức vận chuyển sẽ quyết định hàng hóa có đến nơi kịp thời hay
Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét