Bài Tiểu Luận: “Thực trạng và giải pháp nhằm thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào
Việt Nam trong giai đoạn hiện nay”.
Trang 5
nhiều nhà đầu tư nước ngoài với một hoặc nhiều nhà đầu tư trong nước thì nội dung
hợp đồng hợp tác kinh doanh phải có quy định về quyền lợi, trách nhiệm và phân
chia kết quả kinh doanh cho mỗi bên hợp doanh.
2. Hợp đồng hợp tác kinh doanh trong lĩnh vực tìm kiếm, thăm dò và khai thác
dầu khí và một số tài nguyên khác theo hình thức hợp đồng phân chia sản phẩm
thực hiện theo quy định của pháp luật có liên quan và Luật Đầu tư.
3. Hợp đồng hợp tác kinh doanh được ký giữa các nhà đầu tư trong nước với
nhau để tiến hành đầu tư, kinh doanh thực hiện theo quy định của pháp luật về hợp
đồng kinh tế và pháp luật có liên quan.
4. Trong quá trình đầu tư, kinh doanh, các bên hợp doanh có quyền thoả thuận
thành lập ban điều phối để thực hiện hợp đồng hợp tác kinh doanh. Chức năng,
nhiệm vụ, quyền hạn của ban điều phối do các bên hợp doanh thỏa thuận. Ban điều
phối không phải là cơ quan lãnh đạo của các bên hợp doanh.
5. Bên hợp doanh nước ngoài được thành lập văn phòng điều hành tại Việt Nam
để làm đại diện cho mình trong việc thực hiện hợp đồng hợp tác kinh doanh.
Văn phòng điều hành của bên hợp doanh nước ngoài có con dấu; được mở tài
khoản, tuyển dụng lao động, ký hợp đồng và tiến hành các hoạt động kinh doanh
trong phạm vi các quyền và nghĩa vụ quy định tại Giấy chứng nhận đầu tư và hợp
đồng hợp tác kinh doanh.
Hình Thức 5: Đầu tư theo hình thức góp vốn, mua cổ phần, sáp nhập, mua lại
doanh nghiệp
1. Nhà đầu tư có quyền góp vốn, mua cổ phần, sáp nhập, mua lại doanh nghiệp
để tham gia quản lý hoạt động đầu tư theo quy định của Luật Doanh nghiệp và pháp
luật có liên quan. Doanh nghiệp nhận sáp nhập, mua lại kế thừa các quyền và nghĩa
vụ của doanh nghiệp bị sáp nhập, mua lại, trừ trường hợp các bên có thoả thuận
khác.
2. Nhà đầu tư khi góp vốn, mua cổ phần, sáp nhập, mua lại doanh nghiệp tại Việt
Nam phải: thực hiện các quy định của điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên
về tỷ lệ góp vốn, hình thức đầu tư và lộ trình mở cửa thị trường; tuân thủ các quy
định về điều kiện tập trung kinh tế của pháp luật về cạnh tranh và pháp luật về
Bài Tiểu Luận: “Thực trạng và giải pháp nhằm thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào
Việt Nam trong giai đoạn hiện nay”.
Trang 6
doanh nghiệp; đáp ứng điều kiện đầu tư trong trường hợp dự án đầu tư thuộc lĩnh
vực đầu tư có điều kiện.
Theo quy định của Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam năm 1996, hoạt động
đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam được diễn ra dưới ba hình thức:
Một là: Đầu tư thông qua hợp đồng hợp tác kinh doanh là văn bản ký kết
giữa hai bên hoặc nhiều bên, gọi là các bên hợp doanh, quy định phân chia trách
nhiệm và phân chia kết quả kinh doanh cho mỗi bên để tiến hành đầu tư kinh doanh
ở Việt Nam mà không thành lập pháp nhân.
Hai là: Doanh nghiệp liên doanh là doanh nghiệp do hai bên hoặc nhiều bên
hợp tác thành lập tại Việt Nam trên cơ sở hợp đồng liên doanh hoặc hiệp định ký kết
giữa chính phủ Việt Nam với Chính phủ nước ngoài, hoặc là doanh nghiệp có vốn
đầu tư nước ngoài hợp tác với doanh nghiệp Việt Nam, hoặc do doanh nghiệp liên
doanh hợp tác với nhà đầu tư nước ngoài trên cơ sở hợp đồng liên doanh.
Ba là: Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài là doanh nghiệp do nhà đầu tư
nước ngoài đầu tư 100% vốn tại Việt Nam.
Ngoài ra, các hình thức và môi trường thu hút vốn đầu tư là: khu công nghiệp,
khu chế xuất, khu công nghệ cao
Thực hiện công cuộc đổi mới, Nhà nước đã ban hành nhiều Văn bản pháp Luật
liên quan đến đầu tư như: Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, Luật khuyến khích
đầu tư trong nước, Luật doanh nghiệp, Luật doanh nghiệp nhà nước tạo nên một
khung pháp lý quan trọng điều chỉnh các hoạt động đầu tư phù hợp với đường lối,
quan điểm của Đảng và thực tiễn phát triển kinh tế - xã hội, phù hợp với yêu cầu hội
nhập; tạo môi trường thuận lợi, hấp dẫn đối với các nhà đầu tư thuộc mọi thành
phần kinh tế. Nhờ hiệu quả của hệ thống chính sách Pháp luật về đầu tư đã ban
hành, việc huy động nguồn lực đầu tư cho tăng trưởng kinh tế ngày càng gia tăng.
Như vậy, việc ban hành Luật Đầu tư đã tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu
tư có nhiều cơ hội đầu tư hơn. Một số điều luật về hình thức đầu tư tại Việt Nam
năm 2005 đang được thực hiện tốt như:
Điều 21. Các hình thức đầu tư trực tiếp
Bài Tiểu Luận: “Thực trạng và giải pháp nhằm thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào
Việt Nam trong giai đoạn hiện nay”.
Trang 7
1. Thành lập tổ chức kinh tế 100% vốn của nhà đầu tư trong nước hoặc 100%
vốn của nhà đầu tư nước ngoài.
2. Thành lập tổ chức kinh tế liên doanh giữa các nhà đầu tư trong nước và nhà
đầu tư nước ngoài.
3. Đầu tư theo hình thức hợp đồng BCC, hợp đồng BOT, hợp đồng BTO,
hợp đồng BT.
4. Đầu tư phát triển kinh doanh.
5. Mua cổ phần hoặc góp vốn để tham gia quản lý hoạt động đầu tư.
6. Đầu tư thực hiện việc sáp nhập và mua lại doanh nghiệp.
7. Các hình thức đầu tư trực tiếp khác.
Điều 22. Đầu tư thành lập tổ chức kinh tế
1. Căn cứ vào các hình thức đầu tư quy định tại Điều 21 của Luật này, nhà đầu
tư được đầu tư để thành lập các tổ chức kinh tế sau đây:
a) Doanh nghiệp tổ chức và hoạt động theo Luật doanh nghiệp;
b) Tổ chức tín dụng, doanh nghiệp kinh doanh bảo hiểm, quỹ đầu tư và các tổ
chức tài chính khác theo quy định của pháp luật;
c) Cơ sở dịch vụ y tế, giáo dục, khoa học, văn hóa, thể thao và các cơ sở dịch
vụ khác có hoạt động đầu tư sinh lợi;
d) Các tổ chức kinh tế khác theo quy định của pháp luật.
2. Ngoài các tổ chức kinh tế quy định tại khoản 1 Điều này, nhà đầu tư trong
nước được đầu tư để thành lập hợp tác xã, liên hiệp hợp tác xã tổ chức và hoạt động
theo Luật hợp tác xã; hộ kinh doanh theo quy định của pháp luật.
Điều 23. Đầu tư theo hợp đồng
1. Nhà đầu tư được ký kết hợp đồng BCC (hợp đồng hợp tác kinh doanh) để
hợp tác sản xuất phân chia lợi nhuận, phân chia sản phẩm và các hình thức hợp tác
kinh doanh khác.
Đối tượng, nội dung hợp tác, thời hạn kinh doanh, quyền lợi, nghĩa vụ, trách
nhiệm của mỗi bên, quan hệ hợp tác giữa các bên và tổ chức quản lý do các bên
thỏa thuận và ghi trong hợp đồng.
Bài Tiểu Luận: “Thực trạng và giải pháp nhằm thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào
Việt Nam trong giai đoạn hiện nay”.
Trang 8
Hợp đồng BCC trong lĩnh vực tìm kiếm, thăm dò, khai thác dầu khí và một số
tài nguyên khác dưới hình thức hợp đồng phân chia sản phẩm được thực hiện theo
quy định của Luật này và các quy định khác của pháp luật có liên quan.
2. Nhà đầu tư ký kết hợp đồng BOT (hợp đồng xây dựng - kinh doanh - chuyển
giao), hợp đồng BTO (hợp đồng xây dựng - chuyển giao - kinh doanh) và hợp đồng
BT (hợp đồng xây dựng - chuyển giao) với cơ quan nhà nước có thẩm quyền để
thực hiện các dự án xây dựng mới, mở rộng, hiện đại hóa và vận hành các dự án kết
cấu hạ tầng trong lĩnh vực giao thông, sản xuất và kinh doanh điện, cấp thoát nước,
xử lý chất thải và các lĩnh vực khác do Thủ tướng Chính phủ quy định.
Chính phủ quy định lĩnh vực đầu tư, điều kiện, trình tự, thủ tục và phương thức
thực hiện dự án đầu tư; quyền và nghĩa vụ của các bên thực hiện dự án đầu tư theo
hình thức hợp đồng BOT, hợp đồng BTO và hợp đồng BT.
Điều 24. Đầu tư phát triển kinh doanh
Nhà đầu tư được đầu tư phát triển kinh doanh thông qua các hình thức sau đây:
1. Mở rộng quy mô, nâng cao công suất, năng lực kinh doanh;
2. Đổi mới công nghệ, nâng cao chất lượng sản phẩm, giảm ô nhiễm môi
trường.
Điều 25. Góp vốn, mua cổ phần và sáp nhập, mua lại
1. Nhà đầu tư được góp vốn, mua cổ phần của các công ty, chi nhánh tại Việt
Nam. Tỷ lệ góp vốn, mua cổ phần của nhà đầu tư nước ngoài đối với một số lĩnh
vực, ngành, nghề do Chính phủ quy định.
2. Nhà đầu tư được quyền sáp nhập, mua lại công ty, chi nhánh.
Điều kiện sáp nhập, mua lại công ty, chi nhánh theo quy định của Luật này,
pháp luật về cạnh tranh và các quy định khác của pháp luật có liên quan.
Điều 26. Đầu tư gián tiếp
1. Nhà đầu tư thực hiện đầu tư gián tiếp tại Việt Nam theo các hình thức sau
đây:
a) Mua cổ phần, cổ phiếu, trái phiếu và các giấy tờ có giá khác;
b) Thông qua quỹ đầu tư chứng khoán;
c) Thông qua các định chế tài chính trung gian khác.
Bài Tiểu Luận: “Thực trạng và giải pháp nhằm thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào
Việt Nam trong giai đoạn hiện nay”.
Trang 9
2. Đầu tư thông qua mua, bán cổ phần, cổ phiếu, trái phiếu và giấy tờ có giá
khác của tổ chức, cá nhân và thủ tục thực hiện hoạt động đầu tư gián tiếp theo quy
định của pháp luật về chứng khoán và các quy định khác của pháp luật có liên quan.
Tuy nhiên, những yêu cầu của sự nghiệp đổi mới sâu rộng nền kinh tế, chủ
động hội nhập quốc tế đã và đang đặt ra những đòi hỏi khách quan đối với việc cần
thiết phải xây dựng một khung khổ pháp lý thống nhất về đầu tư nhằm tăng cường
huy động mọi nguồn lực cho phát triển kinh tế - xã hội, cụ thể:
- Đường lối đổi mới kinh tế của nước ta là tiếp tục xây dựng và hoàn thiện
đồng bộ thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, giải phóng mạnh
mẽ sức sản xuất, tạo động lực mới cho phát triển kinh tế quốc tế; nâng cao đời sống
nhân dân. Một trong các giải pháp quan trọng thực hiện chủ trương trên là phải tạo
môi trường pháp lý và cơ chế chính sách thuận lợi, huy động và sử dụng có hiệu quả
mọi nguồn nội lực và ngoại lực.
- Thực tiễn tiến hành công cuộc Đổi mới thời gian qua cho thấy, hệ thống Pháp
luật về đầu tư tại Việt Nam không ngừng được hoàn thiện, theo hướng bình đẳng,
không phân biệt, tạo lập “cùng một sân chơi chung” cho các thành phần kinh tế. Tuy
nhiên, do các luật liên quan đến đầu tư trong nước và nước ngoài được ban hành ở
các thời điểm khác nhau, có phạm vi đối tượng khác nhau nên các chính sách đầu tư
chưa có sự nhất quán, chưa thực sự tạo được “một sân chơi” bình đẳng; tình trạng
phân biệt đối xử giữa các nhà đầu tư vẫn còn tồn tại, đã hạn chế việc phát huy các
nguồn lực. Những bất cập của hệ thống pháp luật tách biệt theo thành phần kinh tế
ngày càng bộc lộ rõ trước sự phát triển năng động đa dạng của Doanh nghiệp trong
nền kinh tế thị trường. Do đó, cần cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh, môi
trường pháp lý nhằm củng cố niềm tin của các nhà đầu tư thuộc mọi thành phần
kinh tế.
- Nước ta đã ký kết nhiều hiệp định song phương và đa phương liên quan đến
hoạt động đầu tư như những cam kết trong khuôn khổ AFTA, Hiệp định khung về
khu vực đầu tư ASEAN, Hiệp định thương mại song phương với Hoa Kỳ, Hiệp định
tự do, Khuyến khích và bảo hộ đầu tư với Nhật Bản và đang tích cực đàm phán gia
nhập WTO. Việc ký kết và thực hiện các cam kết quốc tế trên một mặt đòi hỏi Việt
Bài Tiểu Luận: “Thực trạng và giải pháp nhằm thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào
Việt Nam trong giai đoạn hiện nay”.
Trang 10
Nam phải mở cửa thị trường, xóa bỏ các rào cản thuế quan, phi thuế quan hoặc các
trợ cấp không phù hợp với thông lệ quốc tế, mặt khác vẫn phải duy trì một số chính
sách bảo hộ sản xuất trong nước có điều kiện, có thời gian, mở cửa thị trường theo
lộ trình xác định.
- Cuộc cạnh tranh thu hút vốn đầu tư nước ngoài trên thế giới và khu vực đang
diễn ra ngày càng gay gắt và các nước trong khu vực đang cải cách mạnh mẽ môi
trường đầu tư theo hướng tự do hóa đầu tư, thương mại, làm cho hệ thống luật pháp
về đầu tư nước ngoài của ta được coi là hấp dẫn, nay đang giảm dần tính cạnh tranh
so với các nước trong khu vực. Do đó, cần có chính sách ưu đãi, khuyến khích có
tính cạnh tranh cao hơn, hoặc ít ra cũng tương đương so với các nước trong khu
vực.
3. TÍNH TẤT YẾU KHÁCH QUAN CỦA HOẠT ĐỘNG ĐẦU TƯ NƯỚC
NGOÀI
a. Tính tất yếu khách quan của hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài.
Trong tiến trình phát triển của nền kinh tế thế giới, nhiều quốc gia đã đạt được
nhiều thành tựu to lớn trong việc xây dựng và phát triển nền kinh tế của mình.
Những quốc gia này đã có sự đầu tư rất lớn vào sản xuất và khai thác các dạng tài
nguyên thiên nhiên. Khi trình độ phát triển kinh tế đạt đến mức cao, nhu cầu về vốn
ở trạng thái bão hoà, dư thừa, cơ hội đầu tư ít, chi phí cao thì khi đó các quốc gia có
nhu cầu đầu tư vào các quốc gia khác trên thế giới nhằm tận dụng những lợi thế về
lao động, tài nguyên thiên nhiên, thị trường của những nước đó.
Mặt khác, các quốc gia có những lợi thế đó thì nhu cầu về vốn cho phát triển
kinh tế rất bức xúc. Vì vậy, họ đã có nhiều chính sách để thu hút những nhà đầu tư
nước ngoài đầu tư vào. Có nhu cầu vốn, có nguồn cung cấp từ đó làm xuất hiện
những dòng vốn qua lại giữa các quốc gia. Các dòng vốn di chuyển tuân theo đúng
quy luật từ nơi nhiều đến nơi ít một cách khách quan, do vậy hoạt động đầu tư ra
nước ngoài mang tính tất yếu khách quan.
Ngày nay, hoạt động đầu tư nước ngoài diễn ra một cách sôi nổi và rộng khắp
trên toàn cầu. Các nguồn vốn đầu tư không chỉ di chuyển từ các nước phát triển, nơi
Bài Tiểu Luận: “Thực trạng và giải pháp nhằm thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào
Việt Nam trong giai đoạn hiện nay”.
Trang 11
nhiều vốn sang các nước đang phát triển, nơi ít vốn, mà còn có sự giao lưu giữa các
quốc gia phát triển với nhau. Hiện tượng này xuất phát từ những nguyên nhân sau:
Thứ nhất: quá trình quốc tế hoá đời sống kinh tế đang diễn ra nhanh chóng với
quy mô và tốc độ ngày càng lớn tạo nên một nền kinh tế thị trường toàn cầu trong
đó tính phụ thuộc lẫn nhau của các nền kinh tế mỗi quốc gia ngày càng tăng. Quá
trình này diễn ra nhanh chóng sau thời kỳ chiến tranh đã chi phối thế giới trong nửa
thế kỷ, làm cho các nền kinh tế của từng quốc gia đều theo xu hướng mở cửa và
theo quỹ đạo của nền kinh tế thị trường, bằng chứng là phần lớn các quốc gia đã gia
nhập tổ chức thương mại thế giới (WTO), chấp nhận xu hướng tự do hoá thương
mại và đầu tư. Trong điều kiện trình độ phát triển sản xuất, khả năng về vốn và công
nghệ, nguồn tài nguyên thiên nhiên, mức độ chi phí sản xuất ở các nước khác
nhau thì nguồn vốn đầu tư nước ngoài sẽ tuân theo những quy luật của thị trường
vốn là đi từ nơi thừa đến nơi thiếu vốn với mục tiêu lợi nhuận. Mặt khác, cuộc cách
mạng khoa học - công nghệ đã tạo nên sự biến đổi nhanh chóng và kì diệu của sản
xuất. Thời gian từ khâu nghiên cứu đến ứng dụng vào sản xuất rất ngắn, chu kỳ
sống của sản phẩm ngày càng ngắn lại, sản phẩm hàng hoá phong phú và đa dạng
hơn. Đối với doanh nghiệp, nghiên cứu và đổi mới thiết bị có ý nghĩa sống còn cho
sự hạn chế và phát triển. Còn đối với các quốc gia thì việc làm chủ và đi đầu trong
khoa học - công nghệ sẽ quyết định vị trí lãnh đạo chi phối hay phụ thuộc vào các
nước khác trong tương lai. Chính vì vậy, cuộc đua giữa các quốc gia đặc biệt là các
nước phát triển bên thềm thế kỷ XXI diễn ra ngày càng quyết liệt. Bên cạnh đó, sự
phát triển một cách nhanh chóng của cách mạng thông tin, bưu chính viễn thông,
phương tiện giao thông vận tải đã khắc phục sự xa cách về không gian, giúp các chủ
đầu tư thu thập xử lý thông tin kịp thời, đưa ra những quyết định đầu tư, điều hành
sản xuất kinh doanh đúng đắn mặc dù ở xa hàng vạn km. Những điều này đã tạo nên
một sự dịch chuyển vốn giữa các quốc gia, mở rộng quy mô để chuyển vốn giữa các
quốc gia, mở rộng quy mô để chuyển vốn trên toàn cầu đến các địa chỉ đầu tư hấp
dẫn.
Tại các nước công nghiệp phát triển, khi trình độ kinh tế phát triển ở mức cao
đã góp phần nâng cao mức sống và khả năng tích luỹ vốn của các nước này. Điều
Bài Tiểu Luận: “Thực trạng và giải pháp nhằm thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào
Việt Nam trong giai đoạn hiện nay”.
Trang 12
đó, một mặt dẫn đến hiện tượng “thừa” tương đối vốn ở trong nước, mặt khác làm
cho chi phí tiền lương cao, nguồn tài nguyên thu hẹp và chi phí khai thác tăng đẫn
đến giá thành sản phẩm tăng, tỷ suất lợi nhuận giảm dần, sức cạnh tranh trên thị
trường yếu. Chính vì thế, các nhà đầu tư trong nước tìm kiếm cơ hội đầu tư ở nước
ngoài để giảm chi phí sản xuất, tìm kiếm thị trường mới, nguồn nguyên liệu mới
nhằm thu lợi nhuận cao.
Hiện nay, trình độ phát triển kinh tế giữa các nước công nghiệp phát triển và
các nước đang phát triển ngày càng giãn cách nhưng sự phát triển của một nền kinh
tế toàn cầu đang đòi hỏi phải kết hợp chúng lại. Các nước phát triển không chỉ tìm
thấy ở các nước đang phát triển những cơ hội đầu tư hấp dẫn do chi sản xuất giảm,
lợi nhuận cao, thuận lợi trong việc dịch chuyển thiết bị, công nghệ lạc hậu mà còn
thấy rằng sự thịnh vượng của các nước này sẽ nâng cao sức mua và mở rộng thị
trường tiêu thụ sản phẩm. Ngược lại, các nước đang phát triển cũng đang trông chờ
và mong muốn thu hút được vốn đầu tư, công nghệ của các nước phát triển để thực
hiện công nghiệp hoá, khắc phục nguy cơ tụt hậu ngày càng xa.
b. Tính tất yếu khách quan phải thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài vào
Việt Nam
Ngày nay xu hướng quốc tế hoá toàn cầu hoá đang diễn ra một cách mạnh mẽ
trên thế giới. Các nền kinh tế tác động, bổ sung và phụ thuộc lẫn nhau. Các quốc gia
bị cuốn vào vòng xoáy của quá trình hội nhập kinh tế, chuyên môn hoá, hợp tác hoá
nhằm tận dụng vốn, công nghệ và trình độ quản lý của nhau.
Xuất phát điểm của nước ta là một nước nông nghiệp lạc hậu. Hơn 70% dân số
hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp: năng suất lao động thấp, trình độ kỹ thuật
thấp, tích luỹ nội bộ thấp, sử dụng viện trợ nước ngoài không có hiệu quả. Ngoài ra,
nước ta vừa ra khỏi cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc nên những tàn dư mà ta chưa
khắc phục được còn nhiều: cơ sở hạ tầng thấp kém, đời sống nhân dân còn khó
khăn, chính sách chưa đồng bộ Vì vậy, nhiệm vụ cấp bách của chúng ta hiện nay
là phải phát triển kinh tế, nâng cao mức sống của nhân dân, xây dựng cơ sở hạ tầng.
Để thực hiện điều đó thì chúng ta cần một lượng vốn rất lớn. Trong điều kiện khả
năng đáp ứng của nền kinh tế là có hạn thì chúng ta không còn con đuờng nào khác
Bài Tiểu Luận: “Thực trạng và giải pháp nhằm thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào
Việt Nam trong giai đoạn hiện nay”.
Trang 13
là thu hút sự hợp tác đầu tư của nước ngoài. Để thực hiện điều đó, tại đại hội VI
(12/1986), Đảng và Nhà nước đã chủ trương mở cửa nền kinh tế, đẩy mạnh hoạt
động kinh tế đối ngoại nhằm tận dụng “những khả năng to lớn của nền kinh tế thế
giới về di chuyển vốn, mở rộng thị trường, chuyển giao công nghệ và kinh nghiệm
để bổ sung và phát triển có hiệu quả các lợi thế và nguồn lực trong nước”. Đảng chủ
trương “Đa phương hoá và đa dạng hoá quan hệ kinh tế đối ngoại” với quan điểm
“Việt Nam muốn làm bạn với tất cả các nước trên thế giới”. Tại đại hội VIII, Đảng
chủ trương “Vốn trong nước là chính, vốn nước ngoài cũng quan trọng”. Tất cả
những tư tưởng đổi mới của Đảng và Nhà nước đã tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt
động kinh tế đối ngoại nói chung, hoạt động đầu tư nước ngoài nói riêng.
Như vậy, quá trình thu hút đầu tư nước ngoài vào Việt Nam là một xu thế tất
yếu phù hợp với xu thế của thế giới và yêu cầu phát triển của nền kinh tế Việt Nam.
4. TÁC ĐỘNG CỦA ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI ĐỐI VỚI CÁC
NƯỚC ĐANG PHÁT TRIỂN
Nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài có tác động không nhỏ đối với các
nước nhận đầu tư, đặc biệt các nước phát triển trên cả hai mặt: tích cực và tiêu cực
a Tác động tích cực
Thứ nhất: nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đã bổ sung một nguồn quan
trọng bù đắp sự thiếu hụt vốn đầu tư cho phát triển kinh tế ở các nước đang phát
triển.
Thứ hai : đầu tư trực tiếp đã góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng
công nghiệp hoá - hiện đại hoá. Để tham gia ngày càng nhiều vào quá trình phân
công lao động quốc tế , thu hút ngày càng nhiều vốn đầu tư nước ngoài đòi hỏi mỗi
quốc gia phải thay đổi cơ cấu kinh tế của mình cho phù hợp. Mặt khác, sự gia tăng
của hoạt động đầu tư nước ngoài làm xuất hiện nhiều ngành mới, lĩnh vực mới góp
phần thúc đẩy sự phát tiển nhanh chóng trình độ kĩ thuật - công nghệ của nhiều
ngành kinh tế thúc đẩy sự gia tăng năng suất lao động ở các ngành này và tăng tỷ
phần của nó trong nên kinh tế. Nhiều ngành được kích thích phát triển còn nhiều
ngành bị mai một và đi đến xoá sổ.
Bài Tiểu Luận: “Thực trạng và giải pháp nhằm thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào
Việt Nam trong giai đoạn hiện nay”.
Trang 14
Thứ ba: hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài đã góp phần phát triển nguồn
nhân lực, tạo việc làm và tăng thu nhập cho người lao động. Các dự án đầu tư trực
tiếp nước ngoài thường đòi hỏi nguồn lao động có chất lượng cao do đó sự gia tăng
các dự án đầu tư nước ngoài đã đặt ở các nước sở tại trước yêu cầu khách quan là
phải nâng cao chất lượng, trình độ chuyên môn kỹ thuật, trình độ ngoại ngữ cho
người lao động.
Thứ tư: hoạt động của các dự án đầu tư nước ngoài đã góp phần tăng tỷ trọng
xuất khẩu, hạn chế nhập khẩu, tăng nguồn thu cho ngân sách Nhà nước .
Thứ năm: đầu tư trực tiếp nước ngoài thúc đẩy sự tăng trưởng kinh tế ở các
quốc gia này. Tận dụng, tranh thủ vốn và kỹ thuật của nước ngoài, các nước đang
phát triển đã sử dụng để thực hiện các mục tiêu trong chiến lược phát triển kinh tế
nhằm đẩy mạnh tốc độ tăng trởng kinh tế, thoát khỏi vòng luẩn quẩn của sự nghèo
đói.
b. Tác động tiêu cực
Bên cạnh những ưu điểm trên, hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài còn bộc
lộ nhiều mặt hạn chế.
Một là: đầu tư nước ngoài đã tạo ra một cơ cấu bất hợp lí. Mục đích của các
nhà đầu tư nước ngoài là tìm kiếm lợi nhuận ngày càng nhiều do đó họ chủ yếu đầu
tư vào các ngành công nghiệp, dịch vụ nơi có mức tỷ suất lợi nhuận cao.
Hai là :hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài mang lại hiện tượng “chảy máu
chất xám”. Các nhà đầu tư nước ngoài đã tạo điều kiện thuận lợi về thu nhập, việc
làm do đó đã lôi kéo một bộ phận không nhỏ cán bộ khoa học, nhà nghiên cứu, công
nhân lành nghề của nước ta về làm việc cho họ.
Ba là: chuyển giao công nghệ lạc hậu. Dưới sự tác động của cuộc cách mạng
khoa học - kỹ thuật, quá trình nghiên cứu - ứng dụng ngày càng được rút ngắn, máy
móc thiết bị nhanh chóng trở nên lạc hậu. Để loại bỏ chúng, nhiều nhà đầu tư đã cho
chuyển giao sang các nước nhận đầu tư như một phần vốn góp. Việc làm đó đã làm
cho trình độ công nghệ của các nước nhận đầu tư ngày càng lạc hậu.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét