Thứ Hai, 17 tháng 2, 2014

Ngân sách nhà nước trong hệ thống tài chính chuyển đổi cơ chế kinh tế ở nước ta

Cấu trúc của hệ thống tài chính bao gồm các tụ điểm vốn và các bộ phận dẫn
vốn đợc thể hiện theo sơ đồ. Trong đó :
+ Các tụ điểm vốn là bộ phận mà ở đó các nguồn tài chính đợc tạo ra, đồng thời
cũng là nơi thu hút trở lại các nguồn vốn tuy nhiên ở mức độ và phạm vi khác
nhau. Bao gồm:
Ngân sách Nhà nớc.
Tài chính doanh nghiệp.
Tài chính dân c và các tổ chức xã hội.
Tài chính đối ngoại.
+ Các bô phân dẫn vốn thực hiện chức năng truyền dẫn vốn giữa các tụ điểm vốn
trong hệ thống tài chính. Bao gồm :
Thị trờng tài chính.
Các tổ chức trung gian tài chính.



Tài chính dân
c và các tổ
chức xã hội.
Tài chính đối
ngoại.
5
Ngân sách
Nhà nớc.
Thị trờng tài chính

các tổ chức tài
chính
trung gian.
Trong đó , ngân sách Nhà nớc là bộ phận đợc đánh giá là có vai trò đặc biệt
quan trọng trong thực hiện nhiệm vụ bảo đảm nhu cầu về vốn cho phát triển kinh
tế xã hội.
Thứ nhất, với một nguồn thu ổn định hàng năm thông qua thuế, tiếp nhận viện
trợ hoặc vay vốn nớc ngoài, có thể nói tiềm lực kinh tế của ngân sách Nhà nớc là
rất lớn. Việc cấp phát vốn ngan sách Nhà nớc cho các bộ phận khác nhau của hệ
thống tài chính sẽ làm tăng nguồn vốn ở các tụ điểm nhận vốn, tăng khả năng đầu
t và phát triển kinh tế của các bộ phận này.
Thứ hai, ngân sách Nhà nớc là phơng tiện vật chất cần thiết và quan trọng để hệ
thống chính quyền Nhà nớc thực hiện các nhiệm vụ và chức năng của mình, Nếu
nh mục tiêu theo đuổi của các doanh nghiệp là tối đa hoá lợi nhuận, của các hộ
dân c là tối đa hoá lợi ích thì chính phủ lại mong muốn tối đa hoá phúc lợi xã hội .
Chính điều này đã tạo nen vai trò quan trọng của ngân sách Nhà nớc khong chỉ
trong lĩnh vực kinh tế mà còn trong các lĩnh vực xã hội khác. Trong điều kiện kinh
tế thị trờng, ngân sách Nhà nớc có vai trò to lớn trong việc điều tiết vĩ mô nền kinh
tế xã hội sao cho mang lại phúc lợi lớn nhất cho mọi ngời. Thông qua các hoạt
động thu chi của mình, ngân sách Nhà nớc đã điều tiết lợi ích giữa các tầng lớp
dân c, định hớng và thúc đẩy phát triển kinh tế.
II. Vai trò của ngân sách Nhà nớc:
Vai trò tất yếu của ngân sách Nhà nớc ở mọi thời đại và trong mọi mô hình kinh
tế, là công cụ điều chỉnh vĩ mô nền kinh tế xã hội. Vai trò này, về mặt chi tiết có
thẻ đề cập ở nhiều nội dung và những biểu hiện đa dạng rất khác nhau, song trên
góc độ tổng hợp, có thể khái quát trên ba khía cạnh sau:
1.Vai trò điều tiết trong lĩnh vực kinh tế nhằm kích thích sự tăng tr ởng kinh
tế:
Trong cơ chế kế hoạch hoá tập trung, cùng với việc Nhà nớc can thiệp trực tiếp
vào hoạt động sản xuất kinh doanh, vai trò của ngân sách Nhà nớc trong việc điều
chỉnh các hoạt động trở nên hết sức thụ động. Ngân sách Nhà nớc gần nh chỉ là
một cái túi đựng sổ thu để rồi thực hiện việc bao cấp tràn lan cho các hoạt động
sản xuất kinh doanh thông qua cấp vốn cố định, vốn lu động, cấp bù lỗ, bù giá, bù
lơng. Trong điều kiện đó, hiệu quả của các khoản thu, chi ngân sách Nhà nớc
không đợc coi trọng là tất yếu, tác động của ngân sách Nhà nớc đến các hoạt động
kinh tế nhằm điều chỉnh các hoạt động đó và thúc đẩy sự tăng trởng kinh tế là hết
sc hạn chế.

Chuyển sang cơ chế thị trờng, trong lĩnh vc kinh tế, Nhà nớc định hớng việc hình
thành cơ cấu kinh tế mới, kích thích phát triển sản xuất kinh doanh và chống độc
quyền. Điều dó đợc thực hiện thông qua các chính sách thuế và chính sách chi tiêu
của ngân sách Nhà nớc để vừa kích thích vừa gây sc ép với các doanh nghiệp,
6
nhằm kích thích sự tăng trởng kinh tế. Với các ngành kinh tế u tiên phát triển, Nhà
nớc có thể tạo điều kiện bằng cấchps dụng một chính sách thuế thu nhập công ty
hợp lý. Với các ngành kinh tế còn non trẻ, Nhà nớc thực hiện bảo hộ sản xuất
trong nớc bằng hàng rào thuế nhập khẩu để tao điều kiện cho các doanh nghiệp có
thời gian cải tiến, nâng cao trình độ tránh bị lấn át bởi hàng nhập khảu nớc ngoài.
Với nguồn lực kinh tế to lớn, Nhà nớc sẽ đầu t vào những vùng kinh tế khó khăn,
vùng sâu, vùng xa, những vùng mà nếu chờ sự đầu t của t nhân thì sẽ rát khó khai
thác. Xây dựng cơ sở hạ tầng, đầu t phát triển, định hớng sản xuất ở các vùng khác
nhau phục vụ cho chiến lợc phát triển kinh tế chung của đất nớc.
Ngân sách Nhà nứoc đóng một vai trò quan trọng trong việc phân bổ nguồn lực
trong xã hội. Trong một nền kinh tế thị trờng có sự quản lý của Nhà nớc, các
nguồn lực trong nền kinh tế đợc phân bổ bởi tác động của hai cơ chế: Cơ chế thị
trờng và cơ chế điều tiết của Nhà nớc. Việc phân bổ nguồn lực dới tác động của cơ
chế thị trờngthông qua sự vận động của các quy luật kinh tế thị trờng và các công
cụ kinh tế thị trờng nh giá cả, lãi suất. . . Nói chung, việc phân bổ nguồn lực theo
cơ chế thị truờng là việc phân bổ mang tính kinh tế thờng đạt đợc hiệu quả ở tầm
vĩ mô. Tuy nhiên, xét ở tầm vi mô không phải lúc nào việc phân bổ nguồn lực theo
cơ chế thị trờng đều đạt đợc hiẹu quả nh mong muốn, thâm chí có thể làm lãng phí
nguồn lực xã hội. Để khắc phục những mặt hạn chế của việc phân bổ nguồn lực do
cơ ché thị trờng tạo ra cần có sự can thiệp cảu nhà nớc ở những mức độ nhất định.
Khác với sự can thiệp của Nhà nớc trong nền kinh tế kế hoạch hoa tập trung, sự
can thiệp của Nhà nớc vào việc phân bổ nguồn lực trong nề kinh tế thị trờng là sự
can thiệp mang tính gián tiếp bằng việc sử dụng các công cụ kinh tế tài chính là
chủ yếu. Một trong những công cụ đó là ngân sách Nhà nớc. Thông qua các biện
pháp thu chi ngân sách Nhà nớc, Nhà nớc thực hiện việc bổ sung phân bổ nguồn
lực củaơn chế thị trờng ở nhũng lĩnh vực mà việc phân bổ theo cơ chế thị trờng tỏ
ra không hiệu quả hoặc không thể thực hiện đợc.
2.Vai trò điều tiết trong lĩnh vực xã hội nhằm giải quyết các vấn đề xã hội:
Trong thời kì kinh tế kế hoạch hoá tập trung, tính chất bao cấp tràn lan trong mọi
lĩnh vực kinh tế xã hội đã hạn chế đáng kể vai trò của ngân sách Nhà nớc trong
việc giải quyết các vấn đè xã hội. Trong thời kì này, mọi sự u tiên, u đãi của Nhà
nớc đều dành cho khu vực Nhà nớc. Những chế độ bao cấp về nhà ở, cung cấp l-
ơng thực, thực phẩm, hàng tiêu dùngvới giá thấp. . . đã gây tâm lý sùng bái biên
chế Nhà nớc, tâm lý trông chờ, ỷ lạivà Nhà nớc. Điều đó một phần làm giảm hiệu
quả công tác, hiệu quả tiển vốn, mặt khác vừa tác động ngợc chiều tới việc đảm
bảo công bằng xã hội. Bên cạnh đó, sự bao cấp tràn lan cho các hạt động có tích
chất xã hội, song lại thiếu sự tính toán hợp lý về phạm vi, mức độ và hiệu quả của
nó cũng dẫn tới những hạn chế trong việc thực hiện các mục tiêu xã hội.

Trong việc giải quyết các vấn đề xã hội, sự tồn tại và hoạt động có hiệu quả của
bộ máy Nhà nớc, lực lợng quân đội, công an, sự phát triển các hoạt động xã hội, y
tế, văn hoá có ý nghĩa quyết định. Việc thực hiện các nhiệm vụ này, về cơ bản,
7
thuộc về nhà nớc và không chỉ vì mục tiêu lợi nhuận. Việc sử dụng những dịch vụ
kể trên đợc phân chia giữa những ngời tiêu dùng, nhng nguồn tài trợ để thực hiện
các nhiệm vụ đó lại đợc cấp phát từ ngân sách Nhà nớc. Nh vậy, trong việc thực
hiện các nhiệm vụ có tính chất chung toàn xã hội, ngân sách Nhà nớc có vai trò
quang trọng hàng đầu. Bên cạnh đó, cùng với việc thực hiện các nhiệm vụ có tính
chất chung toàn xã hội, hàng năm chính phủ vẫn đực biệt quan tâm đến tầng lớp
dân c có thu nhập thấp. Chúng ta có thể nhận thấy điều đó thông qua các loại trợ
giúp trực tiếp đợc giành cho những ngời có thu nhập thấp hoặc co hoàn cảnh khó
khăn nh chi về trợ cấp xã hội; các loại trợ giúp gián tiếp dới hình thức trợ giá cho
các mặt hàng thiết yếu ( lơng thực, điện, nớc . . . ), các khoản chi phí để thực hiện
các chính sách dân số, chính sách việc làm, các chơng trình quốc gialớn về chống
mù chữ, chống dịch bệnh, các chi phí cho việc cung cấp các hàng hoá khuyến
dụng, hàng hoá công cộng. . .
Bên cạnh các khonả chi ngân sách cho việc thực hiện các vấn đề xã hội, thuế
cũng đợc sử dụng để thực hiện vai trò tái phân phối thu nhập, đảm bảo công bằng
xã hội. Việc kết hợp giữa thuế trực thu và thuế gián thu, một mặt vừ tăng cờng các
khoản thu cho ngân sách Nhà nớc, mặt khác vừa nhằm điều tiết thu nhập của tầng
lớp có thu nhập cao, điều tiết tiêu dùng, bảo đảm thu nhập hợp lý giữa các tầng lớp
ngời lao động. Nh vậy ngân sách Nhà nớc còn có chức năng tái phân phối thu
nhập. Cũng nh việc phân bổ nguồn lực trong nền kinh tế thị trờngcó sự quản lý của
Nhà nớc, việc phân phối thu nhập cũng đợc thực hiện bởi hai cơ ché là cơ chế thị
trờng và cơ chế của Nhà nớc. Phân phối thu nhập theo cơ chế thị trờng ngời a th-
ờng gọi là việc phân phối mang tính kinh tế. Nghĩa là việc phân phối chủ yếu dựa
vào khả năng cung cấp các yếu tố đầu vào cua các chủ thể trong nền kinh tế nh lao
động, tiền vốn, khoa học công nghệ . . . Do nhiều nguyên nhân khách quan và chủ
quan không phải mọi thành viên trong xã hội đều có khả năng các yếu tố đầu vào
nh nhau, nên cũng không có đợc cơ hội đợc hởng thu nhập nh nhau, tạo ra những
hố ngăn cách giàu nghèo càng lớn. Khi hố ngăn cách giàu nghèo càng sâu có thể
dẫn đến nhũng bất lợi cho quá trình phát triển kinh tế xã hội của đất nớc, thậm chí
có thể dẫn đến xung đột chính trị làm mất ổn định quốc gia. Chính vì vậy, trong
quá trình phát triển quốc gia, Chính phủ của các nớc đều quan tâm đến vấn đề tía
phân phối thu nhập, mục đích là hạn chế bớt sự ngăn cách giàu nghèo làm cho
nguồn thu nhập của xã hội đợc sử dụng hiệu quả hơn.
3. Vai trò điều tiết trong lĩnh vực thị tr ờng góp phần ổn định thị tr ờng giá cả ,
chống lạm phát:
Trong cơ chế kế hoạch hoá tập trung, sự đơn điệu về chế độ sở hữu với hai hình
thức quốc doanh và tập thể đã dẫn đến sự phát triẻn yếu ớt của các quan hệ thị tr-
ờng. Bên cạnh đó, cơ chế kinh tế chỉ huy ( bằng các mệnh lệnh hành chính ) với
việc Nhà nớc quyết định gia cả của các hàng hoá và dịch vụ, chỉ định nơi cung cấp
vật t, tiêu thụ sản phẩm. . . cũng đã làm các quan hệ thị truờng kém phát triển.
Trong cơ chế đó, sự vậm động của gia cả, chi phí thoát ly khỏi quan hệ cung cầu,
của thị truờng, sự biến động ấy đợc che đậy bởi sự bao cấp của Nhà nớc. Trong
8
điều kiện đó, vai trò của ngân sách Nhà nớc đối với các quan hệ thị truờng là điều
tất yếu.
Trong điều kiện của nền kinh tế thị trờng, giá cả chủ yếu dựa vào quan hệ cung
cầu hàng hoá trên thị trờng. Do đó để ổn định giá cả, chính phủ có thể tác động
vào cung hoặc cầu hàng hoá trên thị trờng. Sự tác động này không chỉ đợc thực
hiên thông qua thuế mà còn dợc thực hiện qua chính sách chi tiêu của ngân sách
Nhà nớc. Bằn nguồn cấp phát của chi tiêu ngân sách hằng năm, các quĩ dự trữ Nhà
nớc về hàng hoá và tài chính đợc hình thành. Trong trờng hợp thị trờng có nhiều
biến động, thị truờng lên quá cao, hoặc xuống quá thấp, nhờ lực lợng dự trữ hàng
hoá và tiền , chính phủ có thể điều hoà quan hệ cung cầu hàng hoá, vật t để bình
ổn giá cả trên thị trờng, bảo vê quyền lợi ngời tiêu dùng và bảo vệ sản xuất. Chính
phủ cũng có thể dung ngân sách Nhà nớc nhằm khống chế và đẩy lùi nạn lạm phát
một cách có hiệu quả thông qua việc thực hiện chính sách thắt chặt ngân sách,
nghĩa là cắt giảm các khoản chi tiêu ngân sách, chống tình trạng bao cấp, lãng phí
trong chi tiêu, đồng thời có thể tăng thuế tiêu dùng để hạn chế cầu, mặt khác có
thể giảm thuế đối với đầu t, kích thích sản xuất, phát triển để tăng cung. Ngoài ra
chính phủ còn có thể phát hành các công cụ nợ để vay nhân dân nhằm bù đắp
thiếu hụt ngân sách Nàh nớc, góp phần làm giảm tốc độ lạn phát trong nền kinh tế
quốc dân.
III. Ngân sách Nhà nớc - công cụ tài chính vĩ mô của Nhà nớc trong quản lý
và điều tiết kinh tế:
Chính sách tài khóa là hệ thống các giải pháp đợc thể chế hoá nhằm điều chỉnh
thu nhập và chi tiêu chính phủ để hớng nền kinh tế vào sản lợng và việc làm mong
muốn. Trong ngắn hạn ( 1, 2 năm ), những chính sách này điều tiết sản lợng thực
tế, lạm phát, thất nghiệp nhằm ổn định nền kinh tế. Trong dài hạn, chúng có tác
dụng điều chỉnh cơ cấu kinh tế thúc đẩy tăng trởng kinh tế lâu dài. Chính sách tài
khoá có hai công cụ chủ yếu là thuế và chi tiêu chính phủ. Do đó vấn đề cơ bản
của chính sách tài khoá là giải quyết mối quan hệ tơng quan giữa thu và chi ngân
sách.
1. Chính sách tài khoá lý thuyết:
Khi nền kinh tế ở xa mức sản lợng tiềm năng, thì Nhà nớc có thể sử dụng chính
sách tài khoá để đa nó về mức sản lợng tiềm năng.J.M Keynes coi chính sách tài
khoá là chính sách trung tâm trong quá trình điều chỉnh nền kinh tế của Nhà nớc.
Về mặt lý thuyết có hai hớng vận dung chính sách tài khoá nh sau :
Khi nề kinh tế lâm vào tình trạng suy thoái, thất nghiệp cao, tổng cầu giảm ở
mức thấp, các hãng không tăng đầu t, dân c không tăng tiêu dùng. Để tăng thu
nhập, tăng tổng cầu AD, nhà nớc cần tăng chi tiêu, giảm thuế để tăng tổng chi của
9
xã hội. Thông qua tác động của mô hình số nhân mà khuyếch đại vào mức tăng
sản lợng, đẩy nó tiến gần đến mức sản lợng tiềm năng.
Khi nền kinh tế ở trạng thái quá nóng, lạm phát tăng lên, AD ở mức cao, Nhà n-
ớc phải giảm chi tiêu, tăng thuế làm cho mức chi tiêu chung của nền kinh tế giảm
xuống để sản lợng của nền kinh tế trở lại mức tiềm năng, lạm phát sẽ chững lại .
Cùng với chính sách tiền tệ thị thuế vsf chi tiêu chính phủ là công cụ quan trọng
để Nhà nớc có thể can thiệp vào nền kinh tế, nhng đây là sự can thiệp gián tiếp
tuân theo và thông qua các quy luật kinh tế khách quan của nền kinh tế thị trờng.
2. Một số vấn đề lý luận về ngân sách Nhà nớc:
Ta kí hiệu Các khoản tiền mà Nhà nớc nhận đợc là thu nhập của Nhà nớc T
Các khoản chi tiêu của Nhà nớc là G.
B là hiệu gia thu và chi ngân sách ( cán cân ngân sách ) ta có công thức sau:
B = T - G
Vấn đề cơ bản của ngân sách Nhà nớc là giải quyết mối quan hệ giữa thu ( T ) và
chi tiêu ( G ). Tuy theo so sánh gia thu và chi ta có các trạng thái sau:
+ B > 0 Thặng d ngân sách hay thu ngân sách lớn hơn chi ngân sách .T > G
+ B = 0 Cân bằng ngân sách hay thu ngân sách lớn hơn chi ngân sách . T = G
+ B < 0 Thâm hụt ngân sách hay thu ngân sách nhỏ hơn chi ngân sách . T <
G
Khi nghiên cứu về vấn đề ngân sách Nhà nớc, nhiều nhà kinh tế đã đặt ra những
câu hỏi mà đến bây giờ vẫn còn là những vấn đề tranh luận.
2.1. Có nhất thiết phải để ngân sách Nhà nớc ở trạng thái cân bằng hay
không ?
Một số nhà kinh tế cho rằng, khi điều chỉnh các khoản thu và chi ngân sách, Nhà
nớc cần thực hiện chính sách "cân bằng ngân sách". Theo quy tắc này, Nhà nớc
không đợc phép chi tiêu hơn số tiền mà nó nhận đợc. Tuy nhiên, hầu hết các nhà
kinh tế phản đối quy tắc đòi hỏi Nhà nớc phải cân bằng ngân sách của mình một
cách nghiêm ngặt. Bởi nếu nh ngân sách cân bằng nhng các khoản thu, chi năm
sau không nhiều hơn năm trớc chứng tỏ nền kinh tế không phát triển đi lên vì vậy
nếu giữ ngân sách cân bằng thì phải là cân bằng trong trạng thái động. Hơn nữa,
đôi khi thâm hụt hoặc thặng d ngân sách lại trở nên cần thiết.
Thứ nhất, quy tắc "cân bằng ngân sách" thủ tiêu năng lực tự ổn định của hệ
thống thuế và các khoản chuyển giao thu nhập nhằm ổn định nền kinh tế. Khi nền
kinh tế rơi vào suy thoái, các khoản thuế và chuyển giao thu nhập ( tính trên cơ sở
thu nhập ) tự động thay đổi dù tỉ lệ của chúng không đổi; cụ thể là thuế giảm,
chuyển giao thu nhập tăng khi thu nhập giảm. Các phản ứng ứng tự động góp phần
ổn định nền kinh tế này lại làm cho ngân sách bị thâm hụt. Trong khi đó, quy tắc
"ngân sách cân bằng" nhiêm ngặt đòi hỏi Nhà nớc phải tăng thuế hay cắt giảm chi
10
tiêu vào thời kì suy thoái ; hoạt động này tiếp tục làm tổng cầu giảm sút hơn nữa,
kết quả là suy thoái ngày càng tăng.
Thứ hai, Ngời ta có thể sử dụng thâm hụt để chuyển gánh nặng thuế từ thế hệ
hiện tại cho thế hệ tơng lai. Một số nhà kinh tế lập luận rằng, nếu thế hệ hiện tại
phải phát đọng chiến tranh để bảo vệ độc lập, tự do cho tổ quốcthì các thế hệ tơng
lai sẽ có lợi. Để buộc ngời hởng thụ tơng lai phải trả một phần chi phí, thế hệ hiện
tại có thể tài trợ cho chiến tranh bằng cách cháp nhận thâm hụt ngân sách. Nhà n-
ớc có thể trả lại số nợ trong chiến tranh bằng cách đánh thuế vào thế hệ tiếp theo.
Những nguyên nhân này làm cho hầu hết các nhà kinh tế phủ nhậnn quy tắc
"cân bằng ngân sách" nghiêm ngặt.
2.2. Thâm hụt ngân sách và các biện pháp khắc phục:
Để lợng hoá thâm hụt ngân sách, các nhà kinh tế chia thâm hụt ngân sách ra làm
ba loại:
- Thâm hụt thực tế, tức là thâm hụt ngân sách xảy ra khi số chi thực tế vợt số thu
thực tế trong một thời kỳ nhất định.
- Thâm hụt cơ cấu, là thâm hụt ngân sách xảy ra khi nền kinh tế hoạt động ở mức
sản lợng tiềm năng.
- Thâm hụt chu kỳ, tức là thâm hụt ngan sách bị động do trạng thái chu kỳ của nền
kinh tế gây ra. Nó bằng hiệu số giữa thâm hụt thực tế và thâm hụt cơ cấu.
Thâm hụt ngân sách xảy ra khi Nhà nớc tăng chi tiêu, kết quả là cung vốn vay
giảm, lãi suất tăng dẫn đến hiện tuợng tháo lui đầu t, làm giảm tốc độ tăng trởng
của nền kinh tế. Nhà nớc cần có biện pháp kịp thời khắc phục thâm hụt. Nguyên
tắc cơ bản là "tăng thu, giảm chi", song không phải nền kinh tế nào cũng áp dụng
đợc biện pháp này. Khi các giải pháp tăng thu, giảm chi không khắc phục đợc
thâm hụt, thì Nhà nớc phải sử dung giải pháp tài trợ cho thâm hụt. Có bốn giải
pháp tài trợ là :
Thứ nhất, là vay tiền ngân hàng ( in thêm tiền ). Thế mạnh của giải pháp này là tài
trợ kịp thời cho các khoản thâm thủng của ngân sách, tạo điều kiện thuận lợi cho
bộ máy tài chính vận hành bình thờng, giải toả những ngng trệ trong bộ máy Nhà
nớc. Song, giải pháp này sẽ dẫn đến hậu quả nan giải là lạm phát cao, giá cả tăng,
làm giảm sức mua của đồng tiền và làm đời sống dân c giảm sút khi lợng tiêng
trong lu thông tăng. Đông tiền giảm sức mua làm giảm khả năng tài trợ cho ngân
sách. Bởi khi giá cả tăng, Nhà nớc phải chi tiêu nhiều hơn cho những tiêu dùng
không đổi, điều đó buộc Nhà nớc lại phải in thêm tiền; cứ nh vậy, nền kinh tế sẽ
rơi vào khủng hoảng tiền tệ.
Thứ hai, là sử dụng dự trữ ngoại tệ. Giải pháp này có hiệu lực rất mạnh, giúp bù
đắp kịp thời cho thâm thủng ngân sáchvà ảnh hởng tiêu cực của nó đến nề kinh tế
không tức thời. Sông không phải nớc nào cũng có luợng dự trữ ngoại tệ lớn. Nếu l-
ợng dự trữ ngoại tệ bị rút ra thấp hơn mức tối thiểu ( tơng đơng với giá trị bốn
tháng nhập khẩu ) sẽ dẫn đến nguy cơ phá giá đông bản tệ, uy tín của đồng tiền
11
quốc gia trên thị trờng quốc tế giảm. Và đặc biệt không thẻ ứng phó với những sự
cố trong nên kinh tế, lúc đó t nhân sẽ chuyển vốn ra nớc ngoài, hiện tợng thoái lui
đầu t và suy thoái sẽ xảy ra.
Thứ ba, là vay nợ nớc ngoài. Giải pháp này đã từng là nguồn tài trợ phổ biến và
quan trọng của các nớc bị lệ thuộc. Song, giải pháp này cũng có giới hạn và chỉ là
giải pháp tình thế. Nếu một nớc thờng xuyên vay nợ để tài trợ cho thâm thủng
ngân sách sẽ vấp phải những đối sách hạn chế của các chủ nợ làm cho các khoản
vay không đủ lợng, do đó không hiệu quả. Mặt quan trọng hơn là nợ chồng chất
dẫn đến thu nhập quốc dân hàng năm không đủ trả nợ nớc ngoài, tất yếu bị lệ
thuộc về kinh tế dẫn đến lệ thuộc về chính trị.
Thứ t, là vay nợ trong nớc. Giải pháp này có u thế la huy động đợc các nguồn nội
lực đê khắc phục nguồn thâm thủng ngân sách. Nhà nớc vay nợ nhân dân thông
qua hinh thức phát hành trái phiếu. Song, nó gây ra không ít hiệu ứng phụ, tác
động xấu vào nền kinh tế nh: làm giảm khối lợng tín dụng cho đầu t, làm lãi suất
tăng, làm khu vực t nhân đi vay nợ nớc ngoài. . .
Trong thực tế, nên áp dung đồng thời và linh hoạt các biện pháp trên để phát huy
đuợc những u điểm của mỗi phơng pháp, nhanh chóng giải quyết thâm hụt ngân
sách, ổn định và phát triển kinh tế.
2.3. Thặng d ngân sách:
Thặng d ngân sách lại có tác động hoàn toàn ngợc lại so với trờng hợp thâm hụt
ngân sách. Mức thặng d ngan sách, hay tiết kiệm chính phủ làm tăng tiết kiệm
quốc dân , tăng cung vốn vay; kết quả là lãi suất giảm và khuyến khích đầu t, làm
tăng tốc độ tăng trởng kinh tế. Nh vậy rõ ràng là thặng d ngân sách Nhà nớc có lợi
cho tăng trởng kinh tế hơn so với thâm hụt ngân sách. Đây là điều mà các nhà kinh
tế đều thống nhất. Nhng việc làm gì với khoản thặng d này thì còn nhiều tranh cãi.
Một số nhà hoạch định chính sách cho rằng nên duy trì thặng d; một số khác lại
cho rằng nên thủ tiêu nó bằng cách tăng chi tiêu hay cắt giảm thuế.
Các nhà kinh tế ủng hộ duy trì thặng d lập luận rằng; việc sử dụng phần thặng d để
hoàn trả một số khoản nợ chính phủ sẽ khuyến khích đầu t t nhân và tăng trởng
kinh tế.
Các nhà kinh tế ủng hộ việc thủ tiêu thặng d ngân sách cho rằng; cắt giảm thuế,
thuế suất thấp hơn sẽ làm biến dạng các hoạt đọng kinh tế ít hơn, làm quá trình
phân bổ nguồn lực hiệu quả hơn; hoặc thặng d cần đợc sử dụng để tăng chi tiêu
của chính phủvào cơ sở hạ tầng và giáo dục, bởi vì theo họ lợi suất của đầu t công
cộng vào các lĩnh vực đó cao hơn lợi suất bình quân của t nhân.
Chính sách đúng phụ thuộc vào quan điểm về giá trị của đầu t t nhân và đầu t công
cộng, cùng mức độ biến dạng do thuế gây ra.
12
B. Ngân sách Nhà nớc trong quá trình chuyển đổi kinh tế ở nớc ta:
I. Những vấn đề chung về ngân sách Nhà nớc:
1. Thu ngân sách Nhà nớc:
Xét về mặt nội dung, thu ngân sách Nhà nớc chứa đựng các quan hệ phân phối
nảy sinh trong quá trình Nhà nớc dùng quyền lực chính trị để tập trung một bộ
phận tổng sản phẩm quốc dân để hình thành quỹ tiền tệ tạp trung của Nhà nớc.
Nh vậy thu ngân sách Nhà nớc là toàn bộ các khoản tiền thu đợc tập trung vào tay
Nhà nowcs để hình thành nên quỹ ngân sách. Thu của ngân sách Nhà nớc đợc tập
trung từ nhiều nguồn khác nhau, trong đó nguồn thu chủ yếu là từ thu nhập quốc
dân. Giữa thu nhập quốc dân và thu NSNN có mối quan hệ chặt chẽ với nhau.
Tăng thu nhập quốc dân là cơ sở để tăng thu ngân sách và quá trình huy động thu
nhập quốc dân vào ngân sách cũng có những tác động kích thích tăng thu nhập
quốc dân.

Thu ngân sách Nhà nớc bao gồm:
- Thuế, phí, lệ phí do cá nhân và tổ chức nộp theo quy định của pháp luật.
- Các khoản thu từ hoạt động kinh tế của Nhà nớc:
+ Các khoản đóng góp của các tổ chức và cá nhân.
+ Các khoản viện trợ.
+ Các khoản thu khác theo quy định của pháp luật.
+ Các khoản do Nhà nớc vay( trong và ngoài nớc )

Trong đó thuế là nguồn thu chủ yếu của ngan sách Nhà nớc ta.
Thuế là khoản đóng góp theo quy định của pháp luật mà Nhà nớc bắt buộc mọi
tổ chức và cá nhân có nghĩa vụ nộp cho Ngân sách Nhà nớc. Thuế có tính cỡng
chế và pháp lý cao. Thuế còn là khoản đóng góp không mang tính hoàn trả trực
tiếp. Khác với các khoản vay, Nhà nớc thu thuế từ các tổ chức kinh tế và các cá
nhân nhng không phải hoàn trả trực tiếp cho ngời nộp thuế sau một khoảng thời
gian với một khoản tiền mà họ đã nộp vào NSNN. Số tiền thu thuế đợc Nhà nớc sử
dụng cho các chi tiêu công cộng, phục vụ cho nhu cầu của Nhà nớc và của mọi cá
nhân trong xã hội. Mọi cá nhân, ngời nộp it, ngời nộp nhiều, đều bình đẳng trong
việc nhận lại các phúc lợi công cộng từ phía Nhà nớc
Thuế còn là công cụ để Nhà nớc tham gia vào điều tiết kinh tế vĩ mô. Băng hệ
thống thuế , Nhà nớc quy định đánh thuế hoặc không đánh thuế, đánh thuế với
thuế suất cao hoặc đánh thuế với thuế suất thấp vào các ngành nghề, các mặt hàng
cụ thể. Thông qua đó mà tác động và làm thay đổi mối quan hệ giữa cung và cầu
trên thị trờng, nhằm góp phần thực hiện điều tiết vĩ mô.
Thuế là công cụ để điều hoà thu nhập, thực hiện công bằng xã hội. Trong nền
kinh tế thị trờng thì sự chênh lệch về thu nhập giữa các tầng lớp dân c ngày càng
cao, vấn đề này iên quan đến đạo đức và công bằng xã hội. Sự mất cân bằng đosex
đợc hoà bằng các chính sách thuếcủa Nhà nớc.
13

Hệ thống thuế hiện hành ở nớc ta bao gồm:
Thứ nhất, thuế giá trị gia tăng ( thuế VAT )
Thuế VAT là một loại thuế gián thu. Ngời nộp thuế là các tổ chức, cá nhân kinh
doanhcó doanh thu thuộc các ngành nghề, các hình thức hoạt động có địa điểm cố
định hay lu động, hạot động thờng xuyên hay không thờng xuyên trên lãnh thổ
Việt Nam. Căn cứ để tính thuế VAT là : Giá trị gia tăng phát sinh trong kỳ nộp
thuế và thuế suát.
Đây là nguồn thu quan trong nhất của ngân sách Nhà nớc.
Thứ hai, thuế tiêu thụ đặc biệt.
Thuế tiêu thụ đặc biệt là thuế gián thu, đánh vào giá trị một số hàng hoá sản xuất
và lu thông trong nớc hoặc nhập khẩu.Thuế tiêu thụ đặc biệt ở nớc ta tập trung vào
một số mặt hàngnh: Rợu, bia, thuốc lá, bài lá, vàng mã, xăng dầu các loại, hàng
điện tử cao cấp, ô tô, xe máy. Tuỳ tng loại hàng hoá mà có thuế suất khác nhau.
Ngời nộp thuế tiêu thụ đặc biệt là doanh nghiệp sản xuất kinh doanh và nhập khẩu
các hàng hoá trong dạng tiêu thụ đặc biệt.
Thuế tiêu thụ đặc biệt là nguồn thu lớn của ngân sách Nhà nớc, có taqcs dụng
điều tiết những ngời có thu nhập cao và hạn chế tiêu dùng những hàng hoá độc hại
cho con ngời.
Thứ ba, thuế thu nhập doanh nghiệp.
Đây là loại thuế trực thu, đánh vào lợi nhuận kinh doanh của các doanh nghiệp
sản xuất thuộc các thành phần sản xuất. Đối tợng đánh thuế là lợi nhuận thực tế
thu đợc trong kinh doanh. Ngời nộp thuế là các đơn vị sản xuất kinh doanh thuộc
tất cả các ngành nghề của các thành phần kinh tế.
Thứ t, thuế xuát, nhập khẩu.
Đối tợng của thuế xuất khẩu, nhập khẩu là hàng hoá đợc phép xuất khẩu, nhập
khảu qua cửa khẩu, biên giới Việt Nam. Thuế suất của hàng hoá nhập khẩu, xuất
khẩu gồm thuế suất thông thờng và thuế suất u đãi. Ngoài ra còn có u đãi miễn
thuế, nhằm khuyến khích suất khảu hàng trong nớc cần xuất và nhập những hàng
thiết yếu.
Thuế suất khẩu, thuế nhập khẩu là một loại thuế quan trọng trong chính sách mở
cửa với bên ngoài, đồng thời là vũ khí để bảo vệ kinh tế trong nớc và là một nguồn
thu lớn cho ngân sách Nhà nớc.
Thứ năm, thuế sử dụng đất nông nghiệp.
Thuế sử dụng đất nông nghiệp là thúe trực thu, thu theo dạng đất nông nghiệp do
các tổ chức và cá nhân sử dụng vào sản xuất nông nghiệp. Ngời sử dụng đất nông
nghiệp là ngời nộp thuế sử dụng đất nông nghiệp.
Thuế sử dụng đất nông nghiệp thể hiện quan điểm khoan sc dân, giảm nhệ sự
đóng góp của nông dân cho Nhà nớc, thúc đẩy sản xuất nông nghiệp phat triển phù
hợp với kinh tế thị trờng, góp phần sử dụng có hệu quả đất nông nghiệp, công
bằng , hợp lý trong việc sử dụng đất nông nghiệp giữa các miền, các địa phơng,
góp phần cải thiện đời sống nông dân.
Thứ sáu, thuế thu nhập đối với ngời có thu nhập cao.
14

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét