phần mở đầu
Sự hình thành thị trờng chứng khoán là một tất yếu của nền kinh tế thị
trờng nhằm huy động có hiệu quả nguồn vốn trung và dài hạn cho đầu t phát
triển kinh tế - xã hội. Sau một thời gian vận hành, thị trờng chứng khoán Việt
Nam đã phần nào thể hiện đợc vai trò của mình. Đảng và Nhà nớc ta hết sức
chú trọng trong việc xây dựng một thị trờng chứng khoán phù hợp định hớng
đổi mới và phát triển kinh tế đất nớc. Thực tế định hớng này đã đợc khẳng
định trong các Văn kiện Đại hội VI, VII, VIII và tiếp tục đợc khẳng định lại
tại Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng là "thúc đẩy sự
hình thành, phát triển và từng bớc hoàn thiện các loại thị trờng theo định
hớng xã hội chủ nghĩa, đặc biệt quan tâm đến các loại thị trờng quan trọng
nhng hiện cha có hoặc còn sơ khai nh: thị trờng lao động, thị trờng chứng
khoán.v.v." và " Tạo lập đồng bộ các yếu tố thị trờng, đổi mới và nâng cao
hiệu lực quản lý kinh tế của Nhà nớc. Phát triển thị trờng vốn và tiền tệ, nhất
là thị trờng vốn trung và dài hạn. Tổ chức và vận hành an toàn, hiệu quả thị
trờng chứng khoán, thị trờng bảo hiểm, từng bớc mở rộng quy mô và phạm
vi hoạt động kể cả việc thu hút vốn nớc ngoài".
Để thị trờng hoạt động có hiệu quả và đúng mục tiêu đã đề ra thì việc xây
dựng và hoàn thiện khung pháp lý điều chỉnh hoạt động của thị trờng có ý
nghĩa hết sức quan trọng. Trong những năm qua Chính phủ và các ban ngành
liên quan đã hết sức nỗ lực trong việc tạo lập một khung pháp lý cho hoạt động
của thị trờng. Tuy nhiên, sau hơn bốn năm đi vào hoạt động, hệ thống pháp
luật điều chỉnh hoạt động chứng khoán và thị tr
ờng chứng khoán đã bộc lộ
nhiều bất cập cần đợc điều chỉnh. Văn bản pháp lý chuyên ngành điều chỉnh
lĩnh vực chứng khoán và thị trờng chứng khoán hiện nay còn cha bao quát,
đầy đủ, hiệu lực pháp lý thấp và còn nhiều bất cập với các lĩnh vực pháp luật
khác có liên quan nh Luật Kinh tế, Luật Dân sự, Luật Hình sự, Luật Hành
chính.v.v. Điều này, phần nào đã làm cản trở sự phát triển của thị trờng. Yêu
cầu đặt ra đối với các nhà hoạch định chính sách là liệu khung pháp lý thị
trờng chứng khoán hiện nay còn vớng mắc ở những nội dung nào? Cần sửa
5
đổi, bổ sung những vấn đề gì? Với các yếu tố đặc thù của TTCK có phải sửa
đổi, bổ sung cả các lĩnh vực pháp luật có liên quan không? Mục tiêu đặt ra
đối với việc xây dựng khung pháp lý cho thị trờng chứng khoán là phải "Ban
hành đồng bộ hệ thống văn bản pháp luật điều chỉnh hoạt động thị trờng
chứng khoán theo hớng bao quát, toàn diện và phù hợp với thị trờng "
1
,
đồng thời phải phù hợp với các văn bản pháp luật có liên quan trong hệ thống
pháp luật Việt Nam.
Để giải quyết những vấn đề nêu trên, việc nghiên cứu Đề tài khoa học
Định hớng xây dựng Luật Chứng khoán trong mối quan hệ với các lĩnh vực
pháp luật khác" là cần thiết.
Thông qua sự nghiên cứu các lĩnh vực pháp luật có liên quan, bằng việc sử
dụng phơng pháp so sánh, đề tài chỉ ra mối quan hệ, những bất cập và xung
đột của hệ thống pháp luật hiện hành với pháp luật về chứng khoán và thị
trờng chứng khoán. Trên cơ sở đó, đa ra những kiến nghị sửa đổi, bổ sung
pháp luật về chứng khoán cũng nh các văn bản pháp luật có liên quan nhằm
hoàn thiện hệ thống pháp luật kinh tế cũng nh toàn bộ hệ thống pháp luật Việt
Nam, đặc biệt là những giải pháp kiến nghị đóng góp cho công tác xây dựng
Luật Chứng khoán.
1
Quyết định số 163/2003/QĐ-TTg của Thủ tớng Chính phủ phê duyệt Chiến lợc phát triển thị trờng chứng
khoán Việt Nam đến năm 2010
6
Chơng I
Luật Chứng khoán trong mối quan hệ
với các lĩnh vực pháp luật khác
1. Vị trí, vai trò của Luật Chứng khoán trong hệ thống pháp luật
Việt Nam
1.1 Khái quát về Luật Chứng khoán
ở Việt Nam, TTCK đã bắt đầu hình thành ngay từ khi Luật Công ty ra đời
năm 1990 cho phép các công ty cổ phần đợc phát hành cổ phiếu cùng với
chơng trình thí điểm cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nớc năm 1992. Tuy
nhiên, hoạt động của thị trờng giao dịch chứng khoán còn diễn ra một cách tự
phát và cha có sự quản lý của Nhà nớc. Nhằm đa TTCK Việt Nam chính
thức đi vào hoạt động dới sự quản lý của Nhà nớc, tạo ra một môi trờng
kinh doanh và đầu t chứng khoán an toàn, công khai, hiệu quả và bình đẳng,
Chính phủ đã ban hành Nghị định số 48/1998/NĐ-CP ngày 11/7/1998 về chứng
khoán và thị trờng chứng khoán (nay đã đợc thay thế bằng Nghị định số
144/2003/NĐ-CP ngày 28/11/2003 của Chính phủ) để điều chỉnh các hoạt
động, quản lý và giám sát TTCK. Tiếp sau đó nhiều văn bản pháp luật khác về
chứng khoán và thị trờng chứng khoán đã đợc ban hành nh Nghị định
161/2004/NĐ-CP về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực chứng khoán,
và các văn bản hớng dẫn thi hành Nghị định 144/CP nh Quy chế về thành
viên, giao dịch, Quy chế về tổ chức và hoạt động của công ty chứng khoán
Các văn bản pháp luật về chứng khoán và thị trờng chứng khoán nói trên
đã bớc đầu tạo ra một khuôn khổ pháp lý cho thị trờng chứng khoán Việt
nam phát triển trong thời gian qua. Sau gần 4 năm kể từ ngày 20/7/2000, Trung
tâm giao dịch chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh (TTGDCK) chính thức
khai trơng và đi vào hoạt động, TTCK Việt Nam đã đợc hình thành và phát
triển với sự quản lý chặt chẽ của Nhà nớc. Tính đến 17/09/2004 đã có 200 loại
chứng khoán niêm yết giao dịch, bao gồm 24 loại cổ phiếu, 173 loại trái phiếu
chính phủ, 2 trái phiếu công ty và 1 loại trái phiếu chính quyền địa phơng, đa
7
tổng giá trị niêm yết đạt 20,8 tỷ đồng (chiếm 3,44% GDP 2003). Một hệ thống
các tổ chức trung gian tài chính trên thị trờng với 13 công ty chứng khoán, 16
tổ chức hoạt động lu ký cùng với công ty quản lý quỹ, ngân hàng chỉ định
thanh toán đã thực hiện tốt các nghiệp vụ về kinh doanh, dịch vụ chứng khoán.
Tuy nhiên trải qua hơn 4 năm hoạt động, so với tiềm năng phát triển của
nền kinh tế, xu hớng hội nhập quốc tế thì quy mô của thị trờng chứng khoán
Việt nam còn quá nhỏ bé, cha đáp ứng đợc kỳ vọng của Chính phủ là trở
thành một kênh huy động vốn trung và dài hạn cho nền kinh tế. Diễn biến của
thị trờng còn có nhiều phức tạp, công tác tạo hàng còn gặp nhiều khó khăn, số
lợng các công ty niêm yết trên thị trờng còn hạn chế cả về số lợng và chất
lợng. Nguyên nhân của việc này là do các yếu tố: thị trờng còn ít các nhà đầu
t có tổ chức, chuyên nghiệp nên dễ bị ảnh hởng bởi yếu tố tâm lý; các doanh
nghiệp còn trông chờ vào nguồn vốn bao cấp, nguồn vốn ngân hàng, không
muốn bị kiểm toán và công bố thông tin; tiến trình cổ phần hoá còn cha gắn
liền với việc niêm yết cổ phiếu trên thị trờng Ngoài ra, một trong những
nguyên nhân rất quan trọng của việc thị trờng cha thực sự phát triển đó là hệ
thống pháp luật về chứng khoán và thị trờng còn thiếu đồng bộ, cha có Luật
Chứng khoán để tạo môi trờng pháp lý đầy đủ, ổn định điều chỉnh mọi hoạt
động trên thị trờng chứng khoán phù hợp với điều kiện thực tế hiện nay và phù
hợp với định hớng, chiến lợc phát triển thị trờng chứng khoán Việt Nam.
Nhận thức đợc vai trò, tầm quan trọng của thị trờng chứng khoán trong
nền kinh tế và tính cấp thiết của việc xây dựng Luật Chứng khoán trong điều
kiện hiện nay, Đảng và Chính Phủ đã rất quan tâm đến việc phát triển thị trờng
chứng khoán và xây dựng Luật Chứng khoán. Việc xây dựng Luật Chứng khoán
đã đợc đa vào trong Chơng trình xây dựng luật, pháp lệnh của Quốc hội
nhiệm kỳ khoá XI (2002-2007) đ
ợc Quốc hội thông qua tại Nghị quyết số
12/2002/QH11 ngày 16/12/2002. Để xúc tiến triển khai quá trình xây dựng luật,
đầu năm 2004 Bộ trởng Bộ Tài chính đã có Quyết định số 1771/BTC thành lập
Ban Soạn thảo, Tổ Biên tập Dự án Luật Chứng khoán với sự tham gia của nhiều
chuyên gia trong các ngành, lĩnh vực có liên quan đến chứng khoán và thị
trờng chứng khoán. Theo dự kiến, dự thảo Luật Chứng khoán sẽ đợc trình
Chính phủ vào cuối năm 2005, xin ý kiến của Uỷ ban Thờng vụ Quốc hội vào
8
kỳ họp 1 tháng 5 năm 2006 và đợc Quốc hội thông qua vào tháng 11 năm
2006.
Trong khoa học pháp lý, sự hình thành của một bộ môn khoa học, vai trò
và vị trí của nó là do nhu cầu của cuộc sống quyết định. Luật Chứng khoán
đợc hình thành là do nhu cầu của xã hội, của quốc gia đối với việc hình thành
và phát triển một loại thị trờng mới - thị trờng chứng khoán, để trở thành một
kênh huy động vốn có hiệu qủa cho đầu t phát triển, phục vụ cho mục tiêu
phát triển nền kinh tế đất nớc nói chung.
Với tính cách là một khoa học, Luật Chứng khoán có đối tợng nghiên cứu
riêng của nó. Đối tợng nghiên cứu của Luật Chứng khoán trớc tiên là các
quan hệ xã hội mà các quy phạm Luật Chứng khoán tác động đến. Luật Chứng
khoán nghiên cứu, điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh giữa các chủ thể
tham gia hoạt động trên thị trờng chứng khoán Việt Nam, những quyền và
nghĩa vụ của các chủ thể phải gánh vác khi tham gia các quan hệ đó.
Luật Chứng khoán nghiên cứu điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh từ
các lĩnh vực khác nhau của thị trờng chứng khoán nh: các quan hệ xã hội
phát sinh từ hoạt động phát hành, niêm yết chứng khoán trên TTCK, các quan
hệ xã hội phát sinh từ hoạt động quản lý Nhà nớc về chứng khoán và thị
trờng chứng khoán; thanh tra, giám sát và xử lý vi phạm trên thị trờng chứng
khoán và giải quyết tranh chấp phát sinh
Có thể nói một cách khái quát, Luật Chứng khoán là tổng hợp các quy
phạm pháp luật, các nguyên tắc pháp lý điều chỉnh các quan hệ phát sinh giữa
các chủ thể trong quá trình các chủ thể tham gia hoạt động trên thị trờng
chứng khoán trên cơ sở kết hợp các phơng pháp điều chỉnh khác nhau nhằm
bảo vệ thị trờng hoạt động hiệu quả, ổn định, an toàn, công bằng, công khai,
minh bạch của thị trờng chứng khoán.
1.2 Vị trí của Luật Chứng khoán trong hệ thống pháp luật Việt Nam
Luật Chứng khoán liệu có thể đợc coi là một ngành luật độc lập hay là
một lĩnh vực của Luật Kinh tế. Theo chúng tôi vấn đề này chỉ mang ý nghĩa lý
9
luận đối với việc phân định các ngành luật, tức là phân định giới hạn điều chỉnh
của các quan hệ pháp luật theo những tiêu chuẩn truyền thống nh đối tợng
điều chỉnh, phạm vi áp dụng và phơng pháp điều chỉnh. Đối với nhiều lĩnh vực
hiện nay trong đó có Luật Chứng khoán thì việc phân định ranh giới giữa chúng
rất khó thực hiện bởi giữa chúng có nhiều điểm giao thoa, vì vậy việc phân định
chúng bằng các tiêu chí đó khó có thể thực hiện đợc. Trong sự phát triển của
nhiều ngành luật có sự tách bạch riêng của một hay một số định chế. Sự phát
triển của các quan hệ xã hội đạt tới mức mà việc hạn chế chúng trong một định
chế không còn có thể chấp nhận đợc.
Với Luật Chứng khoán, quan điểm coi Luật Chứng khoán là một bộ phận
của pháp luật kinh tế có hạt nhân hợp lý của nó.
Chúng ta đều biết lĩnh vực kinh tế là một lĩnh vực phức tạp nhất trong đời
sống xã hội. Các quan hệ xã hội phát sinh trong lĩnh vực kinh tế lại càng phức
tạp. Mỗi loại quan hệ kinh tế đó đòi hỏi những quy phạm pháp luật phù hợp để
điều chỉnh. Để quản lý nền kinh tế nhà nớc cần ban hành rất nhiều văn bản
pháp luật để điều chỉnh các quan hệ kinh tế. Tổng hợp tất cả các văn bản pháp
luật liên quan trực tiếp đến sự quản lý và vận hành của nền kinh tế đợc gọi là
pháp luật kinh tế. Pháp luật kinh tế bao gồm nhiều ngành luật nh Luật ngân
hàng, Luật các tổ chức tín dụng, Luật thuế
Việc xếp Luật Chứng khoán vào vị trí là một bộ phận của pháp luật kinh tế
xuất phát từ những lý do sau:
- Xuất phát từ đặc điểm và bản chất của thị trờng chứng khoán. Thị
trờng chứng khoán thực chất là một thể chế tài chính bậc cao, một bộ phận cấu
thành quan trọng của thị trờng tài chính, là nơi trao đổi, mua bán các loại
chứng khoán dài hạn và là kênh huy động vốn trung và dài hạn chủ yếu cho nền
kinh tế.
- Xuất phát từ mối quan hệ chặt chẽ, có nhiều điểm giao thoa giữa Luật
Chứng khoán và các luật khác trong lĩnh vực pháp luật về kinh tế nh Luật ngân
hàng, Luật thuế, Luật Tổ chức tín dụng, Luật Đầu t nớc ngoài tại Việt Nam,
10
Luật Khuyến khích đầu t trong nớc, Luật Doanh nghiệp, Luật Doanh nghiệp
Nhà nớc
1.3 Vai trò của Luật Chứng khoán
1.3.1 Luật Chứng khoán có vai trò quan trọng trong việc hoàn thiện khung
pháp lý thị trờng chứng khoán Việt Nam
Một trong những yếu tố quan trọng hàng đầu của việc hoàn thiện khung
pháp lý về chứng khoán và thị trờng chứng khoán Việt Nam hiện nay chính là
xây dựng Luật Chứng khoán. Đây cũng là chủ trơng của Đảng và Nhà nớc
trong việc tăng cờng hoàn thiện hệ thống pháp luật về chứng khoán và thị
trờng chứng khoán. Luật Chứng khoán với những u thế rất lớn sẽ tạo ra một
môi trờng pháp lý ổn định, vững chắc, bảo vệ quyền, lợi ích của các chủ thể
tham gia thị trờng, góp phần xây dựng và phát triển thị trờng chứng khoán
Việt Nam trở thành một kênh huy động vốn quan trọng và thiết yếu đáp ứng
cho công cuộc công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nớc, cụ thể là:
Thứ nhất, Luật Chứng khoán là văn bản quy phạm pháp luật do Quốc hội,
cơ quan cao nhất của quyền lực Nhà nớc ban hành để điều chỉnh các quan hệ
xã hội phát sinh trong lĩnh vực chứng khoán và thị trờng chứng khoán. Đây là
văn bản có giá trị pháp lý cao (chỉ sau Hiến pháp) nên việc ban hành Luật
Chứng khoán sẽ tạo ra một môi trờng pháp lý ổn định, bền vững, đảm bảo cho
thị trờng chứng khoán hoạt động an toàn, công khai.
Thứ hai, với một quy trình xây dựng chặt chẽ có sự tham gia góp ý của
nhiều tổ chức, cá nhân trong xã hội, Luật Chứng khoán đảm bảo thể hiện đợc
quyền tự do dân chủ, ý chí và nguyện vọng của đông đảo các tầng lớp nhân dân,
vì vậy nó có tính ổn định cao. Hơn nữa, với sự tham gia góp ý của nhiều tổ
chức, cá nhân, Luật Chứng khoán sẽ dễ dàng đi vào cuộc sống và đợc mọi
ngời tôn trọng, tự giác thực hiện.
Thứ ba, với một phạm vi điều chỉnh rộng, Luật Chứng khoán bao gồm đầy
đủ các quy phạm pháp luật điều chỉnh tất cả những lĩnh vực quan trọng nhất của
thị trờng chứng khoán. Luật Chứng khoán đợc ban hành không những điều
11
chỉnh những quan hệ xã hội phát sinh trong hiện tại mà còn đảm bảo bao quát
đợc nhiều vấn đề phát sinh trong tơng lai.
Thứ t, lĩnh vực chứng khoán là một lĩnh vực phức tạp, ảnh hởng đến
quyền, lợi ích của nhiều loại chủ thể trên thị trờng, vì vậy, đòi hỏi phải có một
văn bản có hiệu lực pháp lý cao nhất là Luật Chứng khoán để điều chỉnh mọi
quan hệ phát sinh trên thị trờng. Luật Chứng khoán đợc ban hành có khả
năng thiết lập một trật tự mà ở đó mọi chủ thể khi tham gia vào các quan hệ
phải tôn trọng những cam kết và phải chịu trách nhiệm về những hậu qủa có thể
xảy ra. Có Luật Chứng khoán bảo vệ quyền và lợi ích của mình, các tổ chức, cá
nhân sẽ yên tâm và tin tởng khi tham gia kinh doanh, đầu t trên thị trờng
chứng khoán, từ đó thu hút các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nớc tham gia.
Thứ năm, sự hợp tác giữa các quốc gia trong lĩnh vực chứng khoán và thị
trờng chứng khoán chỉ có thể phát triển trong một môi trờng chính trị, kinh
tế, xã hội ổn định và có đủ độ tin cậy lẫn nhau. Pháp luật là phơng tiện có ý
nghĩa quan trọng trong việc tạo lập môi trờng ổn định đó. Hiện nay, hầu hết
các nớc có thị trờng chứng khoán đều có Luật Chứng khoán điều chỉnh. Vì
vậy, để hệ thống pháp luật về chứng khoán của Việt Nam có hiệu lực ngang tầm
và phù hợp với luật pháp quốc tế, thông lệ quốc tế về chứng khoán và thị trờng
chứng khoán, đảm bảo sự hội nhập của thị trờng chứng khoán Việt Nam với
xu hớng phát triển chung của thị trờng chứng khoán quốc tế và khu vực, Việt
Nam cần phải ban hành Luật chứng khoán.
Tóm lại, để hoàn thiện khung pháp lý về chứng khoán và thị trờng chứng
khoán, tạo cơ sở pháp lý cho thị trờng chứng khoán Việt Nam phát triển ổn
định, an toàn, lành mạnh và có hiệu quả, nâng cao hiệu lực quản lý Nhà nớc
đối với hoạt động chứng khoán, đáp ứng yêu cầu phát triển của nền kinh tế quốc
dân, phù hợp với các chuẩn mực quốc tế trong tiến trình hội nhập, việc nghiên
cứu xây dựng Luật Chứng khoán là một đòi hỏi cần thiết.
1.3.2 Luật Chứng khoán giữ vị trí quan trọng trong hệ thống pháp luật
Việt Nam
Hệ thống pháp luật Việt Nam là tổng thể các quy phạm pháp luật có mối
liên hệ nội tại thống nhất với nhau đợc phân định thành các chế định pháp luật,
12
các ngành luật, các lĩnh vực pháp luật và đợc thể hiện trong các văn bản do
nhà nớc ban hành theo những trình tự và hình thức nhất định. Có nhiều tiêu
chuẩn để xác định mức độ hoàn thiện của một hệ thống pháp luật, trong đó
"tính toàn diện" đợc coi là tiêu chuẩn đầu tiên và là tiêu chuẩn để "định lợng"
một hệ thống pháp luật, thể hiện mức độ hoàn thiện của hệ thống pháp luật. ở
cấp độ chung, tính toàn diện đòi hỏi hệ thống pháp luật phải có đủ các ngành
luật, các văn bản quy phạm pháp luật, các chế định để điều chỉnh mọi quan hệ
phát sinh trong cuộc sống.
Do vậy, nếu thiếu đi các quy phạm pháp luật của Luật Chứng khoán, hệ
thống pháp luật nói chung không thể đợc coi là hoàn thiện.
Việc ban hành Luật Chứng khoán để tạo ra một khung pháp lý hoàn thiện
sẽ tạo đợc sự thống nhất giữa các văn bản quy phạm pháp luật về chứng khoán
và thị trờng chứng khoán với các văn bản pháp luật khác có liên quan, góp
phần hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam. Luật Chứng khoán cần đợc xây
dựng song song, đồng thời với việc xem xét chỉnh sửa, bổ sung các văn bản
pháp luật khác có liên quan nhằm tạo sự thống nhất, đồng bộ và hoàn chỉnh
trong hệ thống pháp luật nói chung. Hệ thống này đợc hoàn thiện sẽ tạo ra một
môi trờng pháp lý hết sức thuận lợi cho sự phát triển của nền kinh tế, trong đó
có sự phát triển của thị trờng chứng khoán.
2. Luật Chứng khoán trong mối quan hệ với các lĩnh vực pháp luật
khác
2.1 Những đặc trng của Luật Chứng khoán
Những đặc trng của Luật Chứng khoán là những đặc điểm để phân biệt
giữa Luật Chứng khoán và các luật khác, làm cho nó không lẫn đợc với các
luật khác. Các nét đặc trng của Luật Chứng khoán thể hiện qua đối tợng điều
chỉnh, chủ thể, phơng pháp điều chỉnh và nguồn của Luật.
13
2.1.1 Đối tợng điều chỉnh
Mỗi một lĩnh vực pháp luật đều có đối tợng điều chỉnh riêng của nó. Đối
tợng điều chỉnh của Luật Chứng khoán chỉ là các quan hệ xã hội phát sinh
trong lĩnh vực chứng khoán và TTCK. Đây chính là cơ sở để phân biệt với đối
tợng điều chỉnh của các lĩnh vực pháp luật khác nh dân sự, hành chính, hình
sự
Luật Chứng khoán điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh từ hoạt động
phát hành chứng khoán ra công chúng, phát hành chứng khoán ra nớc ngoài;
niêm yết chứng khoán trên thị trờng chứng khoán tập trung và thị trờng
chứng khoán nớc ngoài; giao dịch chứng khoán trên thị trờng tập trung và phi
tập trung; quy định về mô hình sở giao dịch chứng khoán; quy định về công bố
thông tin trên thị trờng chứng khoán; quản lý Nhà nớc về chứng khoán và thị
trờng chứng khoán; thanh tra, giám sát và xử lý vi phạm trên thị trờng chứng
khoán, v.v. Các quan hệ xã hội mà quy phạm pháp Luật Chứng khoán điều
chỉnh có thể đợc phân loại theo các nhóm sau:
- Các quan hệ giữa một bên là các cá nhân, tổ chức với một bên là Nhà
nớc phát sinh từ hoạt động quản lý nhà nớc về chứng khoán và thị trờng
chứng khoán (quan hệ phát sinh từ hoạt động cho phép đăng ký phát hành, cấp
phép niêm yết, cấp phép hoạt động kinh doanh và dịch vụ chứng khoán; quan
hệ phát sinh từ hoạt động thanh tra việc thực hiện pháp luật và chính sách về
chứng khoán và thị trờng chứng khoán; phát sinh từ việc xử lý vi phạm pháp
luật chứng khoán)
- Quan hệ giữa các cá nhân, tổ chức với nhau phát sinh do ý chí của các
bên (quan hệ phát sinh về giải quyết tranh chấp, bồi thờng thiệt hại, quan hệ
phát sinh trong hợp đồng ).
2.1.2. Chủ thể
Trong quá trình xây dựng Luật Chứng khoán, một vấn đề quan trọng đặt ra
là ngoài việc phải xác định đối tợng điều chỉnh còn phải xác định cụ thể hệ
thống chủ thể của Luật. Có xác định đợc rõ vấn đề đó thì mới có đủ dấu hiệu
14
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét