Thứ Hai, 3 tháng 3, 2014

Lich su Sinh hoc phần 2

CHƯƠNG VI : TIẾN HÓA
I. MỞ ÐẦU
Chữ Evolutio- tiến hóa có nghĩa là dãn ra hay mở ra, là sự chuyển một cách dần dần có quy luật từ trạng thái này
qua trạng thái khác theo một hướng nhất định ngày càng hoàn thiện hơn. Từ giữa thế kỷ XVIII kéo theo hơn 100
năm đã diễn ra một cuộc cách mạng thực sự trong quan điểm của nhân loại rằng con người không phải là trung
tâm của vũ trụ, rằng thế giới vật chất bao quanh con người không phải là bất biến, mà thay đổi dần dần với thời
gian, tức trải qua một quá trình tiến hóa lâu dài. Khái niệm tiến hóa dần dần ngự trị trong khoa học và quan niệm
hiện nay cho rằng toàn bộ thế giới vật chất gồm vũ trụ, các Vì Sao, Quả Ðất và tất cả các sinh vật đều là kết quả
của một quá trình tiến hóa lâu dài không theo một chương trình tiền định mà diễn ra theo các quy luật tự nhiên
thông thường của vật chất. Ðiều này đúng cho sự tiến hóa của vũ trụ và sự tiến hóa của sinh học.
I I. CÁC QUAN ÐIỂM DUY TÂM
1.Thần tạo luận ( creactionism):
Platon (427 - 347 trước công nguyên) nhà triết học duy tâm cổ Hylạp được coi là người nêu ra quan điểm này.
Theo Platon thì những ý niệm (edios), tức là nguyên hình của mọi sự vật, tồn tại một cách độc lập với những sự
vật đó. Sự vật nhờ có ý niệm mới tồn tại được. Vật chất chỉ là bóng của ý niệm. Cây, ngựa, nước là do ý niệm
siêu tự nhiên về cây, ngựa, nước sinh ra. Sự vật chỉ là phản ánh của những ý niệm, là cái bóng của các hình
chưa hoàn thiện.
Khái niệm - ý niệm của Platon là cơ sở triết học cho quan niệm sai lầm lớn là quan niệm kiểu hình mẫu. Theo
quan niệm này thì tính đa dạng quan sát được của thế giới không hiện thực gì hơn những hình ảnh của các đối
tượng nào đó ở trên một bức vách hang động, như Platon diễn tả một cách hình ảnh. Chỉ những ý niệm cố định
và bất biến mới là cơ sở của toàn bộ tính đa dạng quan sát được và đó là những ý niệm duy nhất và ổn định.
2. Mục đích luận ( Theleogy ):
Aristotle (384 322 TCN) là học trò của Platon. Ông được đánh giá là nhà tư tưởng vĩ đại nhất của thời cổ. Ông
đã phê phán lý luận duy tâm về các ý niệm của Palton. Ông có nhiều quan điểm duy vật và đóng góp nhiều cho
sinh học. Quan điểm duy tâm của ông biểu hiện rõ ở mục đích luận.
Theo Aristotle tất cả trong thiên nhiên đều tuân theo một hướng duy nhất là tiến tới đạt được hình thức lý tưởng.
Tất cả đều thực hiện theo những mục đích cuối cùng
Ví dụ- Ở người hai mắt nằm phía trước và vận động thực hiện về phía trước và cần thấy sự vận động hướng tới
đâu. Hai lỗ tai nằm ở hai bên đầu vì nghe từ mọi phía
- Ở động vật môi tồn tại để bảo vệ răng, ở người mức độ cao hơn để tạo tiếng nói. Do có tứ chi nên con người
có hai tay.
Vật có giá trị được đặt ở chỗ có gía trị nên tim nằm ở giữa cơ thể.
Ăng-Ghen mỉa mai rằng Theo các nhà mục đích luận thì mèo sinh ra là để ăn chuột, chuột sinh ra là để mèo ăn
và toàn bộ giới tự nhiên sinh ra là để chứng minh trí tuệ của Chúa sáng tạo.
Ða số các nhà triết học lớn ở các thế kỷ XVII, XVIII, và XIX đã bị ảnh hưởng của các triết học duy tâm của Platon
và dạng cải biến của nó là do Aristotle nêu ra.
3. Tiên hình luận ( Preformism) thế kỷ XVII và thế kỷ XVIII.
Thuyết này ra đời sau khi phát minh ra kính hiển vi. Cuối thế kỷ XVII, Malpighi đã công bố chi tiết sự phát triển
của phôi gà. Tuy nhiên một quan sát sai lầm trứng gà chưa thụ tinh làm ông hướng về thuyết tiên hình luận cho
rằng trong phôi đã chứa sẵn một cơ thể thu nhỏ và sự phát triển chỉ là tăng kích thước. Ông Malpighi và một số
khác theo phái Ovism (chữ La tinh Ovum - trứng) cho rằng cơ thể thu nhỏ nằm trong trứng.
5
Mặt khác, ông Leeuwenhuck, người có công phát hiện tinh trùng ở người cho rằng bào thai đã có sẵn trong tinh
trùng gọi là phái animaculium (từ chữ Latinh animaculum động vật bé nhỏ). Hai phái đã tranh cãi với nhau
trong một thời gian dài.
Khó khăn lớn nhất mà những người theo tiên hình luận khó giải thích là các hiện tượng di truyền và biến dị. Theo
tiên hình luận các cá thể mới không thể khác với bố mẹ được. Trong khi đó trong thời cổ đại người ta biết rằng
con cái giống cả cha lẫn mẹ đôi khi chẳng giống ai.
Ông Leibiiz một nhà triết học duy tâm và toán học và người kết tục ông là Charle Bonne người Thụy sĩ đã nêu
lên thuyết thang sinh vật.
Ông Bonne là người theo tiên hình luận nhưng thuyết thang sinh vật có biểu hiện quan điểm tiến hóa.
Người º
Orangutan º
Khỉ º
Thú º
Chim º
Cá º
Côn trùng º
Thực vật º
Tảo đá º
Ðá º
Ðất º
Nước º
Không khí º
Lửa º
Nguyên tử º
Hình: Các nấc thang chính trong thang sinh vật của Bonne .
( Trích trong giáo trình: Tiến hóa - GS Phạm Thành Hỗ )
4. Thuyết tai biến:
Thuyết này thể hiện quan điểm của nhà tự nhiên học Pháp Cuvier (1769 1832). Dựa vào các mẫu xương thu
được của các động vật cổ xưa thời đệ tam. Cuvier đã mô tả phục hồi được nhiều dạng như thằn lằn bay, các bò
sát cổ Ông được coi là người sáng lập ra thuyết cổ sinh học ( Paleonthology ) và giải phẫu so sánh.
Nhờ công trình của Cuvier và nhiều nhà khoa học khác, thời đó có thể rút ra một số điểm như sau:
- Một thời nào đó trên trái đất có sự sống.
- Sự sống xuất hiện trên hành tinh vào thời gian xa xưa ở dạng sinh vật đơn giản
- Các dạng sinh vật tìm thấy ở các lớp đất địa chất mới không thấy có ở các lớp cổ xưa hơn. Chứng tỏ cùng với
thời gian có nhiều loài mới xuất hiện.
6
- So sánh đối chiếu các dạng hóa thạch với nhau cho thấy những sinh vật xuất hiện về sau càng giống với các
sinh vật ngày nay hơn.
Mức tổ chức được nâng cao dần.
Rõ ràng những số liệu thu được là bằng những chứng rất tốt cho học thuyết tiến hóa. Tuy nhiên Cuvier đã giải
thích khác đi.
Căn cứ theo một số dữ liệu địa chất, Cuvier cho rằng thế giới sinh vật biến đổi một cách đột ngột tức thời không
có chuyển tiếp. Có các dấu vết với động vật cạn nằm dưới các lớp địa chất của biển, còn các dấu vết động vật
biển có thể nằm trên cạn. Ông cho rằng có nhiều tai biến (Catastrophe) đã xảy ra như các sinh vật cạn bị chìm
xuống nước, các sinh vật nước bị đưa lên cạn Có học trò của Cuvier tính rằng có 26 tai biến 27 sáng tạo lại
xảy ra trong lịch sử quả đất.
5. Sinh lực luận (Vitalism):
Ðây là thuyết duy tâm phổ biến ở thế kỷ XIX cho rằng không có lực sống (vitas thì không có hiện tượng sống
không có sự tổng hợp chất hữu cơ.
Vào thời gian này nhiều nghiên cứu sinh lý hóa giải thích các hiện tượng sống bằng các quan điểm vật lý hóa
học thông thường. Như Lavoisier đã so sánh sự oxy hóa với thở trong cơ thể sinh vật. Công trình tổng hợp nhân
tạo chất urea cho thấy chất hữu cơ có thể tổng hợp ngoài cơ thể sinh vật.
Tóm lại, các quan điểm duy tâm vì cho rằng thế giới sinh vật có được do những nhân tố siêu nhiên như Tạo
hóa , các quan điểm này cũng siêu hình vì chưa thể hiện mối liên hệ biện chứng giữa các sinh vật.
III. CÁC QUAN ÐIỂM DUY VẬT
1. Thuyết âm dương:
Các quan điểm duy vật về sự phát triển của tự nhiên cũng đã có tự lâu đời. Ở Ấn Ðộ cổ đại, Trung Quốc cổ đại,
cổ Hy Lạp - La mã nhiều nhà triết học cũng đã có những quan điểm duy vật về sự phát triển của thiên nhiên.
Thời cổ Trung Quốc thuyết âm dương ghi trong sách Nội kinh (2.700 năm TCN) đã giải thích nguồn gốc phát
sinh và nguyên nhân phát triển của vạn vật, hiện tượng tự nhiên kể cả các biểu hiện sinh lý trong cơ thể con
người bằng sự tương tác giữa hai nguyên lý độc lập là âm và dương. Âm dương tương tác ra ngũ hành: kim,
mộc, thủy, hỏa, thổ. Ngũ hành tương tác sinh ra vạn vật ( Tài thiên đại thánh).
2. Thuyết đạo:
Thuyết đạo của Lão tử ( thế kỷ thứ III trước công nguyên) quan niệm sự vận động của giới tự nhiên, và sinh hoạt
của con người đi theo một con đường nhất định gọi là đạo, không cần đến bất cứ một lực lượng siêu hình tự
nhiên nào. Trang tử ( 399 - 186 trước công nguyên ) đã nêu lên những phỏng đoán về sự phát triển của giới
động vật từ những thể hữu cơ nhỏ nhất đến con người.
3. Các quan điểm thời cổ Hy-Lạp:
Các nhà triết học cổ Hy-Lạp như Heraclite (530 - 470 TCN) Democrite (460 - 370 TCN), Empedocle (490 - 43
TCN) đều có những quan điểm tiến hóa. Họ theo quan điểm nguyên tử luận (atomism) cho rằng toàn bộ thiên
nhiên, bắt đầu từ những phân tử nhỏ nhất đến những vật thể vĩ đại nhất. Từ hạt cát đến con người đều trong sự
xuất hiện và tiêu diệt vĩnh viễn, trong quá trình liên tục vận động biến đổi không ngừng. Họ cho rằng sự thống
nhất của thế giới vật chất biểu hiện trong sự thống nhất cấu tạo của giới vô cơ và hữu cơ từ những phân tử nhỏ
nhất đó là các nguyên tử Sự sống là sản phẩm tự nhiên của sự vận động các nguyên tử.
Theo Heraclite tất cả thế giới sinh vật kể cả con người là sản phẩm biến thể của của lửa. Anaximandre de Milet
(TK VI TCN) đã có suy nghĩ rằng con người có nguồn gốc từ động vật Empedocle dAgrigente có quan điểm kỳ lạ
về sự hình thành các sinh vật. Những cái đầu không cổ xuất hiện trên trái đất, những cánh tay không vai, những
con mắt di chuyển đó đây không có trán Những cơ quan rời rạc đó nhờ tác động của tình yêu đã gắn lại với
7
nhau. Những cá thể không tốt bị loại bỏ (ví dụ: bò mang đầu người), còn những sinh vật hợp lý sẽ chiến thắng.
Ở đây đã xuất hiện quan điểm chọn lọc tự nhiên sơ khai.
Lucrece, ởTK I TCN, cũng đã có đề cập tới đấu tranh sinh tồn ở thế giới sinh vật. Ông đã giải thích sự sinh sản
của động vật chỉ bằng các quy luật tự nhiên.
Tuy nhiên do trình độ khoa học thời cổ này còn hạn chế, số liệu còn ít nên thường là các suy diễn ngây thơ.
4. Biến hình luận: ( Transformism).
Sau thời kỳ trung cổ và từ nưả sau thế kỷ XVIII sự ra đời của phương pháp so sánh trong sinh học đã hình
thành nên các bộ môn hình thái học so sánh, phôi sinh học so sánh và sự phát triển của các bộ môn này đã tích
lũy nhiều sự kiện mâu thuẫn với quan niệm sinh vật bất biến tạo điều kiện cho sự xuất hiện tư tưởng biến hình
luận.
Biến hình luận là lý do cho rằng dưới tác dụng của ngoại cảnh sinh vật đã biến đổi hình dạng, loài này có thể
biến đổi thành loài khác. Biến hình luận đã ra đời trong trào lưu triết học duy vật Pháp là triết học tiên tiến nhất
trong thế kỷ XVIII ở Châu Âu.
Denis Diderot (1713 1784) là người đặt cơ sở triết học cho biến hình luận ở Pháp. Ông cho rằng vật chất
không đồng nhất tạo ra khoáng vật, khoáng vật là cơ sở hình thành thực vật và thực vật là nguồn gốc sản sinh ra
động vật. Ông còn cho rằng ảnh hưởng của ngoại cảnh đối với sự biến đổi tổ chức cơ thể sinh vật có thể lớn đến
mức làm nẩy sinh các cơ quan mới và luôn luôn biến đổi chúng.
Khác với tiến hóa luận, biến hình luận cho rằng các biến đổi diễn ra theo mọi hướng bất kỳ. G.L. Buffon là người
đầu tiên công khai trình bày các quan niệm về biến hình luận. Buffon đã nêu lên khả năng biến đổi của các loài
sinh vật và nguồn gốc động vật từ một số ít dạng nguyên thủy ông đã gắn lịch sử giới sinh vật và lịch sử quả đất.
Khi quả đất nguội lại trong lòng đại dương có các phân tử sống (hữu cơ) khác với phân tử chết (vô cơ). Phân tử
sống được hình thành từ phân tử chết dưới tác dụng của nhiệt độ và ánh sáng. Các hạt vật chất sống tác dụng
với nhau tạo nên vố số các dạng sinh vật, chúng tiếp tục tác dụng nữa tạo nên các biến hình. Ðầu tiên xuất hiện
sinh vật thủy sinh như ốc, cá về sau xuất hiện muôn vàn sinh vật do khí hậu, thức ăn, khác nhau và sự lai giống.
Ngoại cảnh có thể biến loại này thành loại khác. Ông còn cho rằng ngựa và lừa có chung nguồn gốc. Thời gian
cũng đóng vai trò quan trọng, là người thợ vĩ đại của thiên nhiên.
Giữa thế kỷ thứ XVIII, một nhà khoa học Pháp ông Pierre de Maupertuis đã có quan niệm rõ ràng về các quá
trình đột biến và chọn lọc. Một mặt các sinh vật có thể biến đổi ngẫu nhiên qua nhiều thế hệ, mặc khác các biến
đổi có lợi có thể duy trì và tích lũy, những cá thể không thích nghi bị hủy diệt.
Ông nội của Darwin là Erasme Darwin dựa vào các quan sát khác nhau cũng nêu lên lý thuyết tiến hóa và ông
được coi là người đi trước Lamarck.
Nhiều nhà triết học duy vật thời bấy giờ đấu tranh tích cực cho các quan điểm về sự biến đổi của thế giới sinh
vật. Họ có quan điểm duy vật máy móc, coi con người như một cái máy, hệ cơ xương như đòn bẩy, tim như một
cái bơm. Tuy nhiên thời bấy giờ các thế lực tôn giáo vẫn còn mạnh. Các thế lực tôn giáo ở trường Sorbonne của
Pháp đã buộc Buffon phải đăng bức thư xin lỗi và phủ nhận các quan điểm của mình.
Sau đó nhà tự nhiên học người Pháp Lamarck được coi là người đầu tiên nêu lên học thuyết tiến hóa một cách
hệ thống và đầy đủ nhất trong tác phẩm Triết học động vật (Philosophie zoologique - 1809). Ông đã trình bày từ
nguồn gốc sự sống đến nguồn gốc con người. Lamarck mang các quan điểm triết học của tự nhiên thần luận cho
rằng trong thiên nhiên tất cả đều phát triển theo các quy luật tự nhiên, mà các quy luật này được thiết lập từ đầu
khi Chúa sáng tạo ra thế giới. Nhưng người đầu tiên hiểu rõ cơ chế tiến hóa và đã củng cố nhận thức cho các
nhà sinh học là Charles Darwin
a. Sơ lược tiểu sử của Charles Darwin (1809 - 1882):
Charles Darwin sinh ngày 12.2 .1809 ở nước Anh tại Shrewsbury. Từ 7 tuổi đến 14 tuổi (năm 1825) ông học ở
trường địa phương, thuộc loại bình thường. Năm 16 tuổi rất ham săn bắn thu thập khoáng vật và côn trùng.
8
Tháng 10 năm 1825 Cha Darwin gởi ông đến Ðại học Edinbourg học y. Darwin không say mê y học mà thích
các môn học tự nhiên như động vật học, thực vật học, địa chất học.
Thấy con khó trở thành bác sĩ cha Darwin khuyên học làm Linh mục. Ở tuổi 19, ông vào học Ðại học
Cambridge, khoa thần học. Ở đây tình cờ ông quen nhà thực vật học John Henslow, sau này giới thiệu ông đi
thám hiểm trên tàu Beagle. Như vậy chuyến đi trên con tàu gần như ngẫu nhiên đối với Darwin, nhưng đã cung
cấp cho ông lượng thông tin lớn làm đảo lộn tư duy của nhiều thế hệ trước ông. Về sau Darwin đã viết rằng:
Cuộc hành trình của Beagle là sự kiện quan trọng nhất trong đời tôi, nó xác định tất cả đời tôi. Cuộc hành trình
kéo dài 5 năm từ tháng 12 năm 1831 đến tháng 10.1836. Khi ra đi ông mới 22 tuổi nhưng khi trở về là 27 tuổi.
Tàu Beagle vượt Ðại tây Dương có dừng lại ở mũi xanh (Cap Vert) đi dọc bờ biển Ðông và Tây Nam Mỹ, qua
đảo Ðất lửa (Terre de Feu), vượt Thái Bình Dương. Tàu dừng lại ở quần Ðảo Galapagos. Quần đảo này có 12
đảo lớn và hàng trăm đảo nhỏ, chúng cách Nam Mĩ vùng xích đạo khoảng 1000km. Một điều ngạc nhiên là có
một số lượng nhiều rùa lớn . Các động vật ở đây có ý nghĩa quan trọng đối với tư duy của Darwin và sự tiến hóa.
Tàu Beagle tiếp tục đi về phía tây thăm Tahiti, tân Tây Lan, Úc và Tasmanie, các đảo Maldives ở Ấn độ Dương,
Ðảo Maurice, Sainte Hélène, Ascension và cuối cùng trở lại Brasil, rồi quay về Anh.
Suốt năm năm hành trình, Darwin tỏ ra là một nhà tự nhiên học có tài; nhờ có ông tham gia nên cuộc khảo sát
này trở thành cuộc khảo sát quan trọng nhất trong lịch sử sinh học.
b.) Công trình nghiên cứu của Darwin:
I. CHỌN LỌC TỰ NHIÊN:
. Khi đi dọc bờ biển phía Nam châu Mỹ, ông không thể không chú ý tới các loài động vật và thực vật thay đổi tiệm
tiến và loài này chỉ khác loài kia một cách không đáng kể. Darwin đã tiến hành khảo sát diệu kỳ nhất trong một
tuần khi con tàu đậu ở quần đảo Galapalos cách bờ biển Equater hàng nghìn cây số.
Ở đó ông đã nghiên cứu một nhóm chim mà ngày nay gọi là Bạch Yến Darwin. Darwin giả thiết là xưa có một
loài Bạch Yến ở một lục địa nào đấy đến sống ở những đảo này và dần dần từ thế kỷ này sang thế kỷ khác đã
diễn ra sự biến đổi loài đầu tiên ấy thành những loài hiện đang sống. Nhóm chim thứ nhất phát triển khả năng ăn
một loại hạt, nhóm thứ hai: ăn một loại hạt khác và nhóm thứ ba ăn sâu bọ. Tùy thuộc vào phương thức sống ở
mỗi nhóm chi mà mà hình thành một loại mỏ chuyên hóa có kích thước và cấu tạo đặc trưng. Vì vậy loài Bạch
Yến tổ tiên đã chọn đảo Galapalos là vùng đất có dân cư thưa thớt làm nơi có những điều kiện thích nghi cho sự
hình thành nhiều biến dị mà trên đất liền không thể xảy ra được.
Nhưng có một yếu tố chính vẫn chưa được giải thích: cái gì đã gây nên những thay đổi tiến hóa đó? Cái gì đã
bắt loài Bạch Yến ăn hạt biến thành loài Bạch Yến ăn sâu bọ? Darwin không thừa nhận giả thuyết của Lamarck.
Nếu theo giả thuyết ấy thì Bạch Yến ăn sâu bọ là do ngẫu nhiên, rồi quen dần với loại thức ăn này và đã di
truyền lại cho đời sau khả năng đồng hóa cao hơn và xu thế dẫn tới sự biến đổi tương ứng các cơ quan được
tập luyện (ví dụ: mỏ). Nhà bác học đã hiểu rằng trong điều kiện tự nhiên, ngay từ thời đại đồ đá mới loài người
đã biết dựa vào tính biến dị của thực vật và động vật để lựa chọn loại bỏ những loại cây trồng và giống vật nuôi.
Ông đã kết luận là những động vật và thực vật thích nghi hơn sẽ đẻ nhiều hơn những động vật và thực vật kém
thích nghi. Nhưng ông vẫn chứa biết quy luật tác động của động vật tự nhiên.
Hai năm sau khi trở về Anh ông đã đọc cuốn sách Thí nghiệm về quy luật dân số hoặc là sự trình bày tác động
của quy luật dân số đối với sự phồn vinh của loài người trước kia và ngày nay, kèm theo những phụ trương của
một số nghiên cứu về triển vọng bài trừ hoặc giảm thiệt hại cho loài người do Tomax Roboc Manthus (1766 -
1834), nhà kinh tế học người Anh viết trước đó 40 năm. Khi thừa nhận dân số xã hội loài người lúc nào cũng
tăng nhanh so với sự tăng sức sản xuất các tư liệu sinh tồn, Manthus đã biện bạch cho những nhân tố làm giảm
dân số là nạn đói, dịch bệnh và chiến tranh.
Darwin đã áp dụng quan điểm Manthus về điều hòa dân số do thiếu thức ăn và đi đến kết luận rằng trong thiên
nhiên, trước hết, những cá thể không có ưu thế đấu tranh sinh tồn sẽ bị diệt vong. Ví dụ: những chim Bạch Yến
đầu tiên sinh sản tự do trên đảo Galapalos khi còn trữ lượng thức ăn. Một số chim Bạch Yến trước hết là những
con yếu hơn và ít khả năng kiếm hạt hơn sẽ bị đói. Do chúng phải chuyển sang ăn những hạt to và rắn hơn,
thậm chí nuốt cả sâu bọ. Những con chim không có khả năng tìm loại hạt đầu vì đói sẽ phải đẻ thưa hơn. Trong
9
khi đó những con chim Bạch Yến kiếm được nguồn dự trữ thức ăn mới chưa có loài nào đụng tới cho dù chúng
rất không quen ăn thì sẽ vẫn sinh sản rất nhanh.
Nói một cách khác, ảnh hưởng của môi trường tạo điều kiện thuận lợi để nảy sinh những tính trạng khác biệt và
phân ly những tính trạng đó, cho tới khi nào những loài độc lập được hình thành chính những loài này sẽ khác
nhau và khác với tổ tiên chung của chúng. Có thể cho rằng chính thiên nhiên đã thực hiện việc lựa chọn những
cá thể có sức chịu đựng dẻo dai hơn và thông qua con đường chọn lọc tự nhiên sự sống đã được phân nhánh
thành vô số dạng sinh vật.
Darwin chú ý tới sự chọn lọc giới tính: những con vật cái thích những con đực có màu sắc rực rỡ nhất. Có lẽ
bằng con đường này xuất hiện những con công đẹp mã và kỳ lạ. Darwin còn chú ý đến các cơ quan thoái hóa
mà trước kia có lẽ hoàn toàn không phải là vô ích cho động vật. Chẳng hạn những mẩu xương còn lại của cá voi
và rắn, xưa kia dùng làm những bộ phận của đai chậu và chân sau. Ðiều đó buộc người ta phải giả thiết cá voi
và rắn là con cháu của các loài động vật đi bằng bốn chân.
Darwin là nhà nghiên cứu đặc biệt có lương tâm, ông đã thu nhập và phân loại các sự kiện rất lâu và rất thận
trọng. Chỉ đến năm 1844, ông mới bắt đầu cầm bút, nhưng suốt 10 năm ông vẫn chưa trình bày công khai học
thuyết của mình.
Cùng thời đó có nhà nghiên cứu người Anh khác là Anfret Ratxen Oalax (1823 1913) cũng nghiên cứu vấn đề
ấy. Giống như Darwin, ông đã dành một phần lớn cuộc đời vào các cuộc du lịch. Năm 1848 1852 ông đã đến
Nam Mỹ và năm 1854 ông đã tới quần đảo Mã Lai. Ông chú ý tới những sai khác giữa các loài thú Châu Á, và
Châu Úïïc. Tiếp đó , khi nghiên cứu phân bố địa lý của các loài, Oalax chứng minh là dọc theo quần đảo Mã Lai -
eo biển giữa các đảo Bocneo và Senlecde cũng như Bali và Lomber có đường ranh giới (đến nay được gọi là
đường ranh giới Oalax) chia khu hệ động vật của vùng này ra làm hai phần: Châu Á và Châu Úïc. Từ đó xuất
hiện sự phân chia động vật thành nhóm động vật lục địa và á lục địa.
Oalax nhận thấy thú của Châu Úïc giữ tính nguyên thủy hơn nhiều và khả năng sinh sống thấp kém hơn thú
châu Á, và cho rằng trong bất cứ sự cạnh tranh nào cái chết cũng rình mò chúng. Lý do mà các loài thú châu
Úïc vẫn tồn tại, có lẽ, là ở châu Úïc và các hòn đảo gần đó đã tách khỏi lục địa châu Á trước khi những loài thú
Châu Á hiện nay hình thành bằng con đường chọn lọc tự nhiên và gửi cho Darwin bài báo trình bày những cơ sở
của học thuyết chọn lọc (khi đó ông chưa hề biết Darwin cũng đang nghiên cứu vấn đề này).
Sự trùng hợp về quan điểm đó làm cho Darwin sửng sốt. Theo đề nghị của Laien và các nhà bác học khác,
người ta xuất bản cùng một lúc công trình của Darwin và Oalax vào năm 1858 trong tạp chí khoa học của hội
Linnaeus ở LonDon. Ðến năm sau, cuối cùng, Darwin đã xuất bản cuốn sách Nguồn gốc các loài bằng con
đường chọn lọc tự nhiên, hay là Sự bảo tồn những loài có ích trong cuộc đấu tranh sinh tồn, gọi tắt là Nguồn gốc
các loài .
Giới khoa học chào đón cuốn sách ấy ra đời. Số sách in ra lần đầu 1.250 cuốn đã bán hết trong vòng một ngày.
Cuốn sách được tái bản nhiều lần và đến nay, một trăm năm trôi qua, yêu cầu đối với cuốn sách đó hãy còn.
II. CUỘC ÐẤU TRANH SINH TỒN:
Chắc chắn Nguồn gốc các loài chiếm vị trí quan trọng nhất trong lịch sử sinh học. Nhờ qua điểm tiến hóa về chọn
lọc tự nhiên của học thuyết Darwin mà nhiều ngành khoa học đã có suy nghĩ mới để giải thích hợp lý những tài
liệu tích lũy được về phân loại học, phôi sinh học, giải phẩu học so sánh, cổ sinh vật học. Thế là sinh học đã có
cơ sở lý luận khoa học.
Học thuyết này lật đổ những khái niệm được người xưa rất tôn trọng và đặc biệt đánh đổ quan niệm thượng đế
sáng tạo ra thế giới và loài người. Thậm chí những người vô thần cũng không có cảm tình với ý nghĩ cho rằng
vương quốc tươi đẹp của sự sống và bản thân của con người phải mù quáng chịu ơn Thương Ðế về sự tồn tại
của mình trên trái đất này. Nhưng học thuyết Darwin còn nhiều điểm khác khó giải thích được.
Ở nước Anh, học trò của Cuvie là nhà động vật học Risa Oen (1804 1892) đã đứng về phía đối lập với thuyết
Darwin. Cũng như thầy của mình, Oen là chuyên gia cỡ lớn về việc dựng lại những động vật đã chết dựa vào
10
những di tích hóa thạch. Oen không chống lại những quan điểm tiến hóa, nhưng chống lại tính ngẫu nhiên trong
quá trình tiến hóa. Ông hiểu sự tiến hóa là biểu hiện một số kích thích bên trong
Ở Pháp, tại đây uy tín của Civie bao trùm lên các nhà sinh học hàng mấy chục năm, lúc đầu chủ nghĩa Darwin
không có tiếng vang lớn. Nhưng ở Ðức nó đã tìm được mãnh đất tốt, nhà nghiên cứu tự nhiên học Erns Henric
Hecken (1834 1919) chẳng những là người kế tục Darwin mà trong một số mặt còn đi xa hơn Darwin.
Ở Mỹ có Axa Gray, nhà thực vật học kiêm hoạt động tôn giáo nổi tiếng là người theo học thuyết Darwin. Người
chống lại Gray là nhà nghiên cứu tự nhiên Thụy sĩ Jean Louis Rudonf Agssiz (1807 1873). Ông là người rất
nổi tiếng nghiên cứu toàn diện nhũng loài cá hóa thạch. Agssiz đã nghiên cứu nhiều về băng hà và chứng minh
sự có mặt của thời kỳ băng hà trong lịch sử trái đất.
Năm 1846, Agssiz sang Mỹ để giảng bài, nhưng rồi lưu lại đó vì say mê với thiên nhiên Bắc Mỹ. Agssiz đã tìm
thấy ở tất cả mọi nơi trên nước Mỹ những dấu vết của thời kỳ băng hà cổ xưa. Ông đã đi đến kết luận rằng hàng
nghìn năm trước đây, những vùng rộng lớn trên bề mặt của Trái đất đã bị một lớp băng bao phủ.
Thời kỳ băng hà (hiện nay người ta đã biết có bốn thời kỳ băng hà, kéo dài khoảng nữa triệu năm trước đây) đã
phủ nhận thuyết đồng điệu của Hietance và Laience. Trong khi giải thích những thời kỳ băng hà cổ, Agssiz tỏ ra
là người theo thuyết tai biến của Cuvie. Cho đến tận cuối đời, ông vẫn không thừa nhận học thuyết Darwin và là
người bảo vệ tích cực cho quan niệm Thượng Ðế sáng tạo ra thế giới.
III . NGUỒN GỐC LOÀI NGƯỜI:
Tất nhiên chỗ yếu nhất của học thuyết Darwin là khâu áp dụng vào việc giải thích loài người. Darwin đã bỏ qua
vấn đề ấy trong Nguồn gốc các loài, còn Oalas, đồng tác giả của thuyết chọn lọc tự nhiên đã kiên quyết khẳng
định rằng loài người không phụ thuộc vào những biến đổi tiến hóa (về sau ông theo thuyết duy tâm). Tuy hoàn
toàn không logic nếu cho rằng tất cả các loài đều tiến hóa trừ loài người. Và thật vậy, dần dần tích lũy được
nhiều sự kiện xác nhận rằng loài người cũng bị lôi cuốn vào trong quá trình tiến hóa.
Năm 1846, nhà khảo cổ học Pháp Jac Buse de Pecto (1788 1868) đã phát hiện ra những cái rìu ở miền Bắc
nước Pháp trong lớp đất có tuổi ước tính hàng nghìn năm. Hiển nhiên là những cái rìu đó không phải là vật có
nguồn gốc tự nhiên mà chỉ có loài người mới có thể chế tạo ra chúng. Ðây là bằng chứng đầu tiên chứng tỏ là
chẳng những tuổi của trái đất mà kể cả tuổi của loài người đã vượt quá 6 nghìn năm, điều đó trái ngược với kinh
thánh.
Song những nhà sinh học Pháp chịu ảnh hưởng của Cuvie vẫn từ chối không công nhận các phát hiện ấy, mặc
dù vào những năm 50 của thế kỷ XIX các nhà khảo cổ học đã khám phá ra những công cụ lao động còn cổ hơn
nhiều.
Năm 1859, một số nhà bác học Anh, sau khi đi xem nơi khai quật của Buse de Pecto đã tuyên bố ủng hộ Buse
de Pecto. Bốn năm sau nhà địa chất học Laien đã sử dụng những khai quật của Buse de Pecto để xuất bản cuốn
sách Những bằng chứng địa chất về tính chất cổ xưa của loài người . Trong cuốn sách đó không những ông bảo
vệ quan điểm của Darwin mà còn áp dụng những quan điểm ấy đối với loài người. Ngay cả Hecli cũng xuất bản
cuốn sách ủng hộ quan điểm đó.
Sau đó ít lâu, đã ra mắt công trình nghiên cứu lớn thứ hai của DarwinNguồn gốc loài người và sự chọn lọc giới
tính (1871), cuốn sách này công khai tuyên bố sự kiện tiến hóa của loài người. Những cơ quan thô sơ của loài
người được coi là các bằng chứng của sự biến đổi tiến hóa. Ruột thừa - phần còn lại của ruột mà trong đó thức
ăn được tích lại và biến đổi dưới tác dụng của vi khuẩn; bốn đốt xương cùng xưa kia là một bộ phận của đuôi;
những cơ tai không cử động được do kết quả di truyền từ tổ tiên mà trước kia những cơ đó không làm cho tai
vẫy được
Mùa hè năm 1856 ở Ðức, trong thung lũng Neathertan gần làng Ðuxenđơf, người ta đã phát hiện ra xương và sọ
người. Những di vật này đã tìm thấy ở các lớp đất có hàng nghìn năm tuổi. Các cuộc tranh luận nổ ra. Phải
chăng những mẩu xương đó là những tổ tiên cổ xưa của loài người hiện đại hay là những mẫu xương của người
rừng bị biến dạng do họ mang những bệnh về xương?
11
Ðặc biệt thầy thuốc người Ðức là Rudolf Virchow (1821 1902), là người kịch liệt chống lại học thuyết Darwin thì
cho rằng đó là bộ xương của người già, lúc trẻ bị bệnh còi xương và lúc già bị bệnh phong; nhưng người sáng
lập ra trường phái nhân chủng học người Pháp là Pon Broca (1824 1880) lại khẳng định là người bệnh cũng
như người khỏe mạnh ngày nay không thể có cái sọ như chiếc sọ đã phát hiện được, những di vật ở người
Neanthertan chính là dạng nguyên thủy của loài người khác hẳn loài người hiện đại.
Ðể giải quyết cuộc tranh luận ấy cần phải tìm ra những di vật bằng xương của những dạng trung gian giữa người
và khỉ hình người.
Vào thời gian ấy người ta đã phát hiện ra những khâu trung gian trong số những động vật hóa thạch. Năm 1861,
viện bảo tàng Anh đã tìm kiếm được những di vật hóa thạch của một loài động vật, mà chắc chắn người ta phải
xếp những di vật đó vào nhóm chim cổ, vì trên đó có in hình lông chim, nhưng ở loài chim này lại có đuôi và răng
giống như răng của thằn lằn. Phát hiện này được coi như là dẫn chứng tốt nhất trong tất cả các dẫn chứng có
thể có khi cho rằng chim bắt nguồn từ bò sát. Tuy vậy những thăm dò kéo dài trong nhiều năm tìm kiếm khâu
trung gian của quá trình tiến hóa của loài người vẫn chưa đạt kết quả. Thành công trong việc này dẫn đến nhà
giải phẩu học kiêm nhân chủng học Hàlan là Eugene Dubois (1858 1940). Dubois cho rằng động vật hình
người nguyên thủy có thể tìm thấy ở những nơi cho đến nay có nhiều vượn hình người: Hoặc ở Châu Phi, nơi
cư trú của Hắc tinh tinh (Antropopithecus troglodytes) và khỉ độc Gorin (Grilla gorilla), hoặc ở Ðộng nam Châu Á,
nơi ở của vượn (Hylobates) và đười ươi (Simia satyrus).
Năm 1887, Dubois đã đến Xumatra tiến hành những cuộc khai quật vô hiệu quả suốt ba năm và sau đó chuyển
sang nghiên cứu ở Java. Chính ở Java, Dubois đã tìm được một nắp xương sọ, xương đùi và hai chiếc răng
chắc chắn thuộc về người nguyên thủy. Nắp xương sọ này lớn hơn rất nhiều so với bất cứ nắp xương sọ của
một con vượn hiện đại nào, nhưng lại bé hơn khá nhiều so với bất cứ sọ người nào hiện đang sống. Ông cho
rằng loài vượn người (Pithecantropus erectus) đi bằng hai chân đã để lại di vật đó. Năm 1894, Dubois xuất bản
một tác phẩm lớn, trong đó mô tả tỷ mĩ những phát hiện của ông.
Thế là những cuộc tranh luận giữa các nhà bác học lại nổ ra. Nhưng những phát hiện tương tự đã xuất hiện ở
trung Quốc, Châu phi và ngày nay chúng đã biết được một số khâu trung gian nên không có bất cứ cơ sở nào để
hoài nghi về sự kiện tiến hóa của loài người và về tiến hóa nói chung mặc dù ở thế kỷ XX có nhiều quan niệm
chống tiến hóa. Ngày nay khó hình dung được có một nhà bác học chân chính nào lại ủng hộ quan điểm chống
tiến hóa.
12
CHƯƠNG VII : NGUỒN GỐC CỦA DI TRUYỀN HỌC
I . ÐIỂM YẾU TRONG HỌC THUYẾT DARWIN
Trong suốt thời gian dài, quá trình truyền lại những yếu tố di truyền cho đời con cháu vẫn là vấn đề hoàn toàn
khó hiểu. Vào cuối thế kỷ XVII sự phát hiện ra tinh trùng đã gây nên một cuộc tranh luận lớn. Một số người
khẳng định rằng cái phôi sau này đã hoàn toàn nằm trong tế bào trứng và sự thụ tinh chỉ là bước nhảy vọt của
quá trình phát triển. Một số người khác cho rằng cái phôi sau này được chứa đựng trong tinh trùng còn tế bào
trứng chỉ đảm bảo việc nuôi cái phôi phát triển. Nói thế nào đi nữa, họ đều nhất trí với nhau ở điểm chỉ có một
trong hai cá thể cha hoặc mẹ là mang những yếu tố di truyền.
Mãi đến giữa thế kỷ XVIII, do kết quả của việc quan sát những đứa trẻ sinh ra từ những cuộc hôn nhân tạp giao
ở người và việc nghiên cứu hình dạng bên ngoài của con la bất thụ, người ta khẳng định rằng những tính trạng
được di truyền xuất phát từ cả cha lẫn mẹ. Pie Lui Moro Mopectuy (1698 1759) nêu ra một thuyết lá các tính
trạng di truyền cho đời con cháu được hình thành và được quy định bởi các phần tử giống của cả cha và mẹ.
Ngay ở thế kỷ XIX người ta vẫn chưa có khái niệm đúng đắn về cơ chế di truyền. Chính vì thế mà học thuyết tiến
hóa thường được ứng dụng một cách thành công. Spenxe cho rằng có khả năng thay đổi nhanh chóng đạo đức
của loài người; còn Gantơn thì cho rằng cải tạo nòi giống người bằng cách chọn lọc những cặp cha mẹ là công
việc không phức tạp lắm. Những quan điểm tương tự của các nhà sinh học cũng được giải thích về thực chất là
do thiếu kiến thức về bản chất cơ chế di truyền. Ðó là một khâu yếu nhất trong học thuyết Darwin.
Nhà thực vật học Ðức là Car Vinhem Negeli (1817 1891) đã nhận rõ rằng tìm một dẫn chứng chính xác cho
việc lấy trung bình cộng và những hậu quả của nó là việc làm phức tạp như thế nào. Ông cho rằng những biến
đổi tiến hóa hướng theo một khía cạnh nhất định là do một bước nhảy vọt bên trong nào đó quyết định.
II . ÐẬU HÀLAN CỦA MENDEL
Nhờ những công trình của nhà tự nhiên học Tiệp Khắc Gego Mendel (1822 -1884) vấn đề trên đã được giải
quyết. Mendel nghiên cứu cả toán học lẫn thực vật học. Từ năm 1856, trải qua 9 năm, ông nghiên cứu những
dấu hiệu di truyền và dùng phương pháp thống kê để chỉnh lý kết quả.
Nhà bác học đã phải hoàn toàn tin rằng chỉ có các dấu hiệu của cha hoặc mẹ được di truyền lại mà thôi, vì thế
ông tiến hành tự thụ phấn cho các thực vật khác nhau một cách rất thận trọng, ông thu những hạt của từng cây
tự thụ phấn một cách rất chính xác, trồng riêng rẽ chúng và nghiên cứu thế hệ mới.
Do kết quả của các thí nghiệm ấy, Mendel đã phát hiện thấy những cây đậu Hà lan lấy từ những cây đậu lùn thì
thế hệ đầu và ngay cả những thế hệ tiếp theo vẫn chỉ cho những cây đậu lùn. Như vậy những cây đậu lùn là một
dòng thuần.
Những cây đậu cao thì biểu hiện theo một cách khác. Một số (hơn 1/3) là dòng thuần từ thế hệ này sang thế hệ
khác chỉ cho những cây đậu cao. Số hạt còn lại thì một số cho những cây đậu cao, một số cho những cây đậu
lùn. Thêm vào đó, những cây đậu cao bao giờ cũng nhiều hơn những cây đậu lùn. Rõ ràng có hai loại đậu cao
một loại thuộc dòng thuần và một loại thuộc dòng không thuần (tạp).
Mendel tiếp tục thí nghiệm. Ông lai những cây đậu lùn thuần với những cây đậu cao dòng thuần và thấy rằng
mỗi hạt lai cho một cây cao. Hình như những tính trạng lùn đã biến mất.
Sau đó tiến hành tự thụ phấn cho từng cây lai, Mendel đã nghiên cứu những hạt thu được. Tất cả những cây lai
là dòng không thuần. Gần 1/4 hạt đậu cho những cây lùn, 1/4 cho những cây cao dòng thuần; một nữa còn lại
cho những cây cao dòng thuần; một nữa còn lại cho những cây cao thuộc dòng không thuần .
Mendel giả định rằng mỗi một cây đậu mang hai yếu tố xác định một tính trạng nào đó, trong trường hợp này là
chiều cao. Một yếu tố có ở hạt phấn, còn yếu tố kia ở noãn. Sau khi thụ tinh, thế hệ mới đã mang cả hai yếu tố
(nếu tiến hành lai hai cây thì có cả yếu tố của cha và mẹ). Ở những cây lùn chỉ có yếu tố lùn. Khi tổ hợp các yếu
tố này lại bằng con đường thụ phấn chéo hoặc tự thụ phấn thì chỉ nhận được những cây lùn. Những cây cao
thuộc dòng thuần chỉ chứa những yếu tố cao, và tổ hợp của chúng chỉ cho những cây cao.
13
Khi lai những cây cao dòng thuần với những cây lùn thì các yếu tô cao và lùn được tổ hợp lại và thế hệ sau là
thế hệ lai. Tất cả những cây lai sẽ cao vì yếu tố cao là yếu tố trội và đã che dấu tác động của yếu tố lùn . Song
yếu tố lùn không biến mất mà vẫn còn giữ lại.
Mendel chứng minh rằng theo kiểu trên, người ta có thể giải thích sự di truyền của bất cứ một tính trạng nào;
thêm vào đó đối với những tính trạng được nghiên cứu việc lai hai tính cực đoan với nhau không dẫn đến sự pha
trộn tính di truyền mỗi một dạng biến dị được bảo tồn và không đổi; nếu dạng biến dị đó đã lặn đi trong thế hệ
này sẽ xuất hiện ở thế hệ sau.
Người ta không dễ dàng loại trừ đi những tính trạng không mong muốn như quan niệm ban đầu. Tính trạng đó
không xuất hiện ở thế hệ này thì có thể phát hiện thấy ở thế hệ sau. Sự sinh sản đi đôi với sự chọn lọc quá
trình này tế nhị và lâu dài hơn điều Ganton đã suy nghĩ.
Nhưng mọi người vẫn chưa chuẩn bị đầy đủ ý kiến để đánh giá những sự kiện trên. Khi mô tả tỉ mỉ các kết quả
nghiên cứu của mình, Mendel hy vọng được nhà thực vật học có tên tuổi chú ý và hứa hẹn ủng hộ ông. Vì thế,
vào đầu những năm 60 của thế kỷ XIX, Mendel đã gởi công trình của mình cho Negeli. Negeli đọc bản thảo đó
với vẻ rất lạnh nhạt; ông không có chứa một chút ấn tượng nào đối với thuyết dựa trên sự tính tóan ở những cây
đậu Halan. Ông ưa chuộng chủ nghĩa thần bí rắc rối và lắm điều đặc trưng cho thuyết trực sinh của ông.
Thất bại đã làm Mendel ngã lòng. Năm 1866 ông đã công bố bài báo của mình nhưng không tiếp tục nghiên cứu
nữa. Mặc dù vậy bài báo đó không lôi cuốn người đương thời, đặc biệt là Negeli không ủng hộ cho Mendel. Ðến
nay ta hoàn toàn có quyền gọi Mendel là người sáng lập ra thuyết về những cơ chế di truyền, hiện nay được gọi
là di truyền học, nhưng thời đó không ai chấp nhận và chính Mendel cũng không dám tự nhận.
III . ÐỘT BIẾN TOP
Nhà thực vật học Hàlan Hugo de Friz (1848 - 1935) cũng thuộc phái những người nói về những bước nhảy vọt
trong tiến hóa. Trên một đồng cỏ hoang, cái đập vào mắt ông là một bụi cây rậm - loại cây trước đó không lâu
được mang từ Châu Mỹ về Hàlan. Con mắt quan sát của nhà thực vật học nhận thấy một số cây trong những
cây đó có hình dạng bên ngoài rất khác nhau, mặc dù có lẽ chúng có cùng tổ tiên chung.
Ông đem trồng bụi cây ấy trong vườn và chăm sóc riêng từng dạng cây đó, dần dần Hugo đi đến kết luận như
Mendel đã nghiên cứu trước ông nhiều năm: những đặc điểm có thể di truyền từ thế hệ này sang thế hệ sau.
Hugo gọi những biến đổi ngẫu nhiên đó là đột biến (từ tiếng la tinh mutatio sự biến đổi), và ông quyết định
quan sát sự tiến hóa nhảy vọt của loài. Thực ra những biến đổi đó không liên quan đến những biến đổi của bản
thân những yếu tố di truyền. Nhưng sau đó chẳng bao lâu, người ta nghiên cứu cả những đột biến thực sự.
Ví dụ: Ðột biến chân ngắn của cừu xẩy ra ở nước Anh vào năm 1791. Cừu chân ngắn thậm chí không thể nhảy
qua được những hàng rào rất thấp. Thông thường qua những quan sát của mình, những người chăn nuôi không
rút ra được những kết luận lý thuyết; còn các nhà bác học, rất tiếc họ thường không sát với thực tiễn chăn nuôi.
Và cuối cùng, chỉ có Hugo mới đặt ra trước giới khoa học những hiện tượng đó. Khoảng năm 1900 khi chuẩn bị
công bố những phát hiện của mình và khi xem xét các công trình cũ về vấn đề này, Hugo rất ngạc nhiên khi thấy
trước đó 30 năm trong bài báo của Mendel đã đề cập tới vấn đề này rồi.
Hai nhà thực vật học Car Eric Coren (1864 - 1933) người Ðức và Eric Semac (1871) người Aïo cũng năm ấy đã
đi đến kết luận rất giống Hugo, dù rằng họ không có liên hệ gì với ông. Và từng người khi xem lại các công trình
cũ, đều phát hiện ra bài báo của Mendel.
Thế là cả ba người: Hugo, Coren, Semac đã công bố những công trình nghiên cứu của mình năm 1900 và mỗi
người khi trích dẫn công trình nghiên cứu của Mendel họ đánh giá về những công trình nghiên cứu của mình
như việc xác nhận giản đơn các kết luận của Mendel. Vì vậy, ngày nay chúng ta mới nói về được các quy luật di
truyền theo Mendel. Các quy luật này kết hợp với phát hiện của De Frizo đã vẽ được bức tranh về sự xuất hiện
và bảo tồn biến dị. Như vậy điểm yếu trong học thuyết Darwin đã được khắc phục và sau khi nhà bác học người
Anh là Ronan Fisher (1890 - 1962) trong cuốn sách học thuyết di truyền của chọn lọc tự nhiên (1930) chứng
minh học thuyết chọn lọc của Darwin và di truyền học của Mendel cần gộp lại thành một học thuyết tiến hóa duy
nhất, đã đạt được những thành tích nổi bật nhất.
14

Xem chi tiết: Lich su Sinh hoc phần 2


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét