LINK DOWNLOAD MIỄN PHÍ TÀI LIỆU "tình hình lội ngập ở tp hcm và những vấn đề cần giải quyết": http://123doc.vn/document/1044733-tinh-hinh-loi-ngap-o-tp-hcm-va-nhung-van-de-can-giai-quyet.htm
25m và xuống tới 3-4m, mặt nghiêng về hướng Ðông Nam. Dưới tác động tổng hợp
của nhiều yếu tố tự nhiên như sinh vật, khí hậu, thời gian và hoạt động của con
người, qua quá trình xói mòn và rửa trôi , trầm tích phù sa cổ đã phát triển thành
nhóm đất mang những đặc trưng riêng. Nhóm đất xám, với qui mô hơn 45.000 ha,
tức chiếm tỷ lệ 23,4% diện tích đất thành phố. Nhờ trầm tích Pleistocen, khu vực
phía Bắc Thành phố Hồ Chí Minh có được lượng nước ngầm khá phong phú.
Ở thành phố Hồ Chí Minh, đất xám có ba loại: đất xám cao, có nơi bị bạc màu;
đất xám có tầng loang lổ đỏ vàng và đất xám gley; trong đó, hai loại đầu chiếm phần
lớn diện tích. Ðất xám nói chung có thành phần cơ giới chủ yếu là cát pha đến thịt
nhẹ, khả năng giữ nước kém; mực nước ngầm tùy nơi và tùy mùa biến động sâu từ 1-
2m đến 15m. Ðất chua, độ pH khoảng 4,0- 5,0. Ðất xám tuy nghèo dinh dưỡng,
nhưng đất có tầng dày, nên thích hợp cho sự phát triển của nhiều loại cây trồng nông
lâm nghiệp, có khả năng cho năng suất và hiệu qủa kinh tế cao, nếu áp dụng biện
pháp luân canh, thâm canh tốt. Nền đất xám, phù hợp đối với sử dụng bố trí các công
trình xây dựng cơ bản.
- Trầm tích Holoxen (trầm tích phù sa trẻ): tại thành phố Hồ Chí Minh, trầm tích
này có nhiều nguồn gốc-ven biển, vũng vịnh, sông biển, lòng sông và bãi bồi nên
đã hình thành nhiều loại đất khác nhau: nhóm đất phù sa có diện tích 15.100 ha
(7,8%), nhóm đất phèn 40.800 ha (21,2%) và đất phèn mặn (45.500 ha (23,6). Ngoài
ra có một diện tích nhỏ khoảng hơn 400 ha (0,2%) là "giồng" cát gần biển và đất
feralite vàng nâu bị xói mòn trơ sỏi đá ở vùng đồi gò:
+ Nhóm đất phù sa không hoặc bị nhiễm phèn, phân bố ở những nơi địa hình
hơi cao khoảng 1,5-2,0m. Nó tập trung tại vùng giữa của phía Nam huyện Bình
Chánh, Ðông Quận 7, Bắc huyện Nhà Bè và một ít nơi ở Củ Chi, Hóc Môn.
Nhóm đất phù sa hai loại: đất phù sa không được bồi, có tầng loang lổ. Trong đó hai
loại đầu chiếm diện tích lớn hơn; loại sau, là đất phù sa ngọt, đất rất tốt, chỉ có
khoảng 5.200 ha (2,7%). Ðất phù sa nói chung có thành phần cơ giới từ sét trung
bình tới sét nặng. Ðất có phản ứng chua, độ pH khoảng 4,2-4,5 ở tầng đất mặt và
xuống sâu 0,5- 1,2m độ chua giảm nhiều, pH nâng lên tới 5,5-6,0. Hàm lượng mùn
trung bình, các chất dinh dưỡng khá. Là loại đất màu mỡ, thuận lợi cho phát triển
trồng lúa cao sản, chất lượng tốt.
SVTH: Vũ Thị Loan - 5 - MSSV: 08B1080041
Đồ án tốt nghiệp GVHD: PGS.TS Hoàng Hưng
+ Nhóm đất phèn có hai loại: đất phèn nhiều và đất phèn trung bình. Chúng
phân bố tập trung chủ yếu ở hai vùng. Vùng đất phèn Tây Nam Thành phố, kéo dài
từ Tam Tân-Thái Mỹ huyện Củ Chi xuống khu vực Tây Nam huyện Bình Chánh -các
xã Tân Tạo, Phạm Văn Hai, Lê Minh Xuân Vùng này hầu hết thuộc loại đất phèn
nhiều (phèn nặng); đất rất chua, độ pH khoảng 2,3-3,0. Nó cùng điều kiện thành tạo
và tính chất giống như đất phèn vùng Ðồng Tháp Mười. Vùng đất phèn ven sông Sài
Gòn-Rạch Tra và bưng Sáu xã quận 9. ở đây hầu hết diện tích thuộc loại đất phèn
trung bình và ít, phản ứng của đất chua nhẹ ở tầng đất mặt, độ pH khoảng 4,5-5,0;
song giảm mạnh ở tầng đất dưới, đất rất chua, độ pH xuống tới 3,0-3,5. Ðất phèn có
thành phần cơ giới từ sét đến sét nặng, đất chặt và bí. Dưới độ sâu khoảng từ 1m trở
xuống, có nhiều xác hữu cơ nên đất xốp hơn. Ðất khá giàu mùn, chất dinh dưỡng
trung bình; song hàm lượng các ion độc tố cao, nên trên đất phèn không thích hợp
với trồng lúa. Tuy nhiên, tăng cường biện pháp thủy lợi tưới tiêu tự chảy để rửa
phèn, có thể chuyển đất canh tác từ một vụ sang hai vụ lúa .
+ Nhóm đất phèn mặn: Ở thành phố Hồ Chí Minh, nhóm đất phèn mặn là
nhóm có diện tích lớn nhất. Nó phân bố tập trung ở đại bộ phận lãnh thổ huyện Nhà
Bè và hầu như toàn bộ huyện Cần Giờ. Theo độ mặn và thời gian ngập mặn, nhóm
đất mặn được chia làm hai loại: đất phèn mặn theo mùa và đất phèn mặn thường
xuyên (còn gọi là đất mặn dưới rừng ngập mặn). Ðất phèn mặn theo mùa có diện tích
10.500 ha, phân bố ở Nhà Bè và bắc huyện Cần Giờ. Thời gian bị mặn kéo dài từ
tháng 12 đến tháng 6 hoặc tháng 7 năm sau. Ðất thịt, giàu mùn, chứa nhiều xác hữu
cơ dưới môi trường yếm khí, chất dinh dưỡng khá; phản ứng của đất từ chua đến rất
chua, pH ở độ sâu tầng sinh phèn xuống tới 2,4-2,7. Tuy nhiên, về mùa lũ, mặn bị
đẩy ra xa và nước được pha loãng trong thời gian dài 4-5 tháng; đồng thời đất có lớp
phủ phù sa dày tới 20-30 cm, nên vẫn cấy được một vụ lúa với năng suất khoảng 2,0-
2,0 tấn/ha. Ðể đạt hiệu quả kinh tế cao hơn, vùng này đã và đang chuyển đổi cơ cấu
cây trồng, vật nuôi và phương thức canh tác-các loài cây ăn quả, cây rừng, nuôi
tôm theo các mô hình nông-lâm ngư kết hợp.
+Ðất mặn dưới rừng ngập mặn: Loại đất này rộng 35.000 ha, chiếm phần lớn
diện tích huyện Cần Giờ. Ðất thịt trung bình, màu xám đen, nhiều mùn nhão lẫn xác
hữu cơ bán phân giải, bị ngập triều thường ngày, nói chung đất còn ở dạng bùn lỏng
SVTH: Vũ Thị Loan - 6 - MSSV: 08B1080041
Đồ án tốt nghiệp GVHD: PGS.TS Hoàng Hưng
chưa cố định, giàu chất dinh dưỡng, độ pH tầng đất trên 5,8-6,5. Ðất ngập mặn, phù
hợp với duy trì và phát triển các loại cây rừng ngập mặn, nhằm giữ bờ lấn biển, bảo
vệ môi trường cảnh quan, phục vụ phát triển du lịch sinh thái và nuôi dưỡng hệ sinh
thái giàu tiềm năng ở vùng ven biển phía nam của thành phố.
Nhược điểm chung của hai loại đất phèn, mặn là nền đất yếu, nhất là đất phèn
mặn thường xuyên; do đó có mặt hạn chế trong xây dựng cơ bản, phát triển cơ sở hạ
tầng kỹ thuật.
1.3. NGUỒN NƯỚC VÀ THUỶ VĂN
1.3.1. Nguồn nước
Nằm ở vùng hạ lưu hệ thống sông Ðồng Nai - Sài Gòn, thành phố Hồ Chí Minh
có mạng lưới sông ngòi, kênh rạch rất phát triển:
- Sông ngòi: Trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh chỉ có sông Sài Gòn đi qua
Thành phố dài 106km. Ngoài ra, còn có sông Đồng Nai. Có mạng lưới sông rạch
chằng chịt gồm 7.880km kênh rạch chính, khoảng 33.500ha diện tích mặt nước, diện
tích vùng đất thấp có cao độ dưới 2m bao gồm cả diện tích mặt nước chiếm 61%
diện tích tự nhiên, nằm ở vùng cửa sông với nhiều công trình điều tiết lớn ở thượng
nguồn như hồ Dầu Tiếng trên sông Sài Gòn, hồ Trị An trên sông Đồng Nai
- Kênh rạch: Ngoài trục các sông chính kể trên ra, thành phố còn có mạng lưới
kênh rạch chằng chịt, như ở hệ thống sông Sài Gòn có các rạch Láng The, Bàu Nông,
rạch Tra, Bến Cát, An Hạ, Tham Lương, Cầu Bông, Nhiêu Lộc-Thị Nghè, Bến Nghé,
Lò Gốm, Kênh Tẻ, Tàu Hũ, Kênh Ðôi và ở phần phía Nam Thành phố thuộc địa bàn
các huyện Nhà Bè, Cần Giờ mật độ kênh rạch dày đặc; cùng với hệ thống kênh cấp
3-4 của kênh Ðông-Củ Chi và các kênh đào An Hạ, kênh Xáng, Bình Chánh đã giúp
cho việc tưới tiêu kết quả, giao lưu thuận lợi và đang dần dần từng bước thực hiện
các dự án giải tỏa, nạo vét kênh rạch, chỉnh trang ven bờ, tô điểm vẻ đẹp cảnh quan
sông nước, phát huy lợi thế hiếm có đối với một đô thị lớn.
- Nước ngầm: ở Thành phố Hồ Chí Minh, nhìn chung khá phong phú tập trung
ở vùng nửa phần phía Bắc-trên trầm tích Pleixtoxen; càng xuống phía Nam (Nam
SVTH: Vũ Thị Loan - 7 - MSSV: 08B1080041
Đồ án tốt nghiệp GVHD: PGS.TS Hoàng Hưng
Bình Chánh, quận 7, Nhà Bè, Cần Giờ)-trên trầm tích Holoxen, nước ngầm thường
bị nhiễm phèn, nhiễm mặn.
1.3.2. Thủy văn
- Về thủy văn, hầu hết các sông rạch TP.HCM đều chịu ảnh hưởng dao động
triều bán nhật của biển Ðông. Mỗi ngày, nước lên xuống hai lần, theo đó thủy triều
thâm nhập sâu vào các kênh rạch trong thành phố, gây nên tác động không nhỏ đối
với sản xuất nông nghiệp và hạn chế việc tiêu thoát nước ở khu vực nội thành.
TP.HCM chịu ảnh hưởng của chế độ thuỷ văn của hệ thống sông Sài Gòn- Đồng Nai.
- Mực nước triều bình quân cao nhất là 1,10m. Tháng có mực nước cao nhất là
tháng 10-11, thấp nhất là các tháng 6-7. Về mùa khô, lưu lượng của nguồn các sông
nhỏ, độ mặn 4% có thể xâm nhập trên sông Sài Gòn đến quá Lái Thiêu, có năm đến
đến tận Thủ Dầu Một và trên sông Ðồng Nai đến Long Ðại. Mùa mưa lưu lượng của
nguồn lớn, nên mặn bị đẩy lùi ra xa hơn và độ mặn bị pha loãng đi nhiều
- Từ khi có các công trình thủy điện Trị An và thủy lợi Dầu Tiếng ở thượng
nguồn, chế độ chảy tự nhiên chuyển sang chế độ chảy điều tiết qua tuốt bin, đập tràn
và cống đóng-xả, nên môi trường vùng hạ du từ Bắc Nhà Bè trở nên chịu ảnh hưởng
của nguồn, nói chung đã được cải thiện theo chiều hướng ngọt hóa. Dòng chảy vào
mùa kiệt tăng lên, đặc biệt trong các tháng từ tháng 2 đến tháng 5 tăng 3-6 lần so với
tự nhiên. Vào mùa mưa, lượng nước được điều tiết giữ lại trên hồ, làm giảm thiểu
khả năng úng lụt đối với những vùng trũng thấp; nhưng ngược lại, nước mặn lại xâm
nhập vào sâu hơn. Tuy nhiên, nhìn chung, đã mở rộng được diện tích cây trồng bằng
việc tăng vụ mùa canh tác. Ngoài ra, việc phát triển các hệ thống kênh mương, đã có
tác dụng nâng cao mực nước ngầm trên tầng mặt lên 2-3m, tăng thêm nguồn cung
cấp nước phục vụ cho sản xuất và sinh hoạt của thành phố.
1.4. KHÍ HẬU VÀ THỜI TIẾT
Thành phố Hồ Chí Minh nằm trong vùng nhiệt đới gió mùa cận xích đạo.
Cũng như các tỉnh ở Nam bộ, đặc điểm chung của khí hậu-thời tiết TPHCM là nhiệt
độ cao đều trong năm và có hai mùa mưa - khô rõ ràng làm tác động chi phối môi
trường cảnh quan sâu sắc. Mùa mưa từ tháng 5 đến tháng 11, mùa khô từ tháng 12
SVTH: Vũ Thị Loan - 8 - MSSV: 08B1080041
Đồ án tốt nghiệp GVHD: PGS.TS Hoàng Hưng
đến tháng 4 năm sau. Nhiệt độ trung bình năm 27,55
0
C, không có mùa đông. Theo
tài liệu quan trắc nhiều năm của trạm Tân Sơn Nhất, qua các yếu tố khí tượng chủ
yếu; cho thấy những đặc trưng khí hậu Thành Phố Hồ Chí Minh như sau:
- Lượng mưa cao, bình quân/năm 1.949 mm. Năm cao nhất 2.718 mm (1908) và
năm nhỏ nhất 1.392 mm (1958). Số ngày mưa trung bình/năm là 159 ngày. Khoảng
90% lượng mưa hàng năm tập trung vào các tháng mùa mưa từ tháng 5 đến tháng 11;
trong đó hai tháng 6 và 9 thường có lượng mưa cao nhất. Các tháng 1,2,3 mưa rất ít,
lượng mưa không đáng kể. Trên phạm vi không gian thành phố, lượng mưa phân bố
không đều, có khuynh hướng tăng dần theo trục Tây Nam - Ðông Bắc. Ðại bộ phận
các quận nội thành và các huyện phía Bắc thường có lượng mưa cao hơn các quận
huyện phía Nam và Tây Nam.
- Ðộ ẩm tương đối của không khí bình quân/năm 79,5%; bình quân mùa mưa
80% và trị số cao tuyệt đối tới 100%; bình quân mùa khô 74,5% và mức thấp tuyệt
đối xuống tới 20%.
- Về gió, Thành phố Hồ Chí Minh chịu ảnh hưởng bởi hai hướng gió chính và chủ
yếu là gió mùa Tây - Tây Nam và Bắc - Ðông Bắc. Gió Tây -Tây Nam từ Ấn Ðộ
Dương thổi vào trong mùa mưa, khoảng từ tháng 6 đến tháng 10, tốc độ trung bình
3,6m/s và gió thổi mạnh nhất vào tháng 8, tốc độ trung bình 4,5 m/s. Gió Bắc- Ðông
Bắc từ biển Đông thổi vào trong mùa khô, khoảng từ tháng 11 đến tháng 2, tốc độ
trung bình 2,4 m/s. Ngoài ra có gió tín phong, hướng Nam - Ðông Nam, khoảng từ
tháng 3 đến tháng 5 tốc độ trung bình 3,7 m/s. Về cơ bản TPHCM thuộc vùng không
có gió bão. Năm 1997, do biến động bởi hiện tượng El-Nino gây nên cơn bão số 5,
chỉ một phần huyện Cần Giờ bị ảnh hưởng ở mức độ nhẹ.
- Lượng bức xạ dồi dào, trung bình khoảng 140 Kcal/cm
2
/năm; số giờ nắng trung
bình/tháng 160-270 giờ. Nhiệt độ không khí trung bình 27
O
C; nhiệt độ cao tuyệt đối
40
O
C, nhiệt độ thấp tuyệt đối 13,8
O
C. Tháng có nhiệt độ trung bình cao nhất là tháng
4 (28,8
O
C), tháng có nhiệt độ trungbình thấp nhất là khoảng giữa tháng 12 và tháng 1
(25,7
O
C). Hàng năm có tới trên 330 ngày có nhiệt độ trung bình 25-28
O
C. Điều kiện
nhiệt độ và ánh sáng như vậy, rất thuận lợi cho sự phát triển các chủng loại cây trồng
SVTH: Vũ Thị Loan - 9 - MSSV: 08B1080041
Đồ án tốt nghiệp GVHD: PGS.TS Hoàng Hưng
và vật nuôi đạt năng suất sinh học cao; đồng thời đẩy nhanh quá trình phân hủy chất
hữu cơ chứa trong các chất thải, góp phần làm giảm ô nhiễm môi trường đô thị.
Khí hậu bình quân của Thành phố Hồ Chí Minh
Tháng 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12
Trung bình cao °C (°F)
32
(90)
33
(91)
34
(93)
34
(93)
33
(91)
32
(90)
31
(88)
32
(90)
31
(88)
31
(88)
30
(86)
31 (88)
Trung bình thấp °C (°F)
21
(70)
22
(72)
23
(73)
24
(75)
25
(77)
24
(75)
25
(77)
24
(75)
23
(73)
23
(73)
22
(72)
22 (72)
Lượng mưa mm (inch)
14
(0.6)
4
(0.2)
12
(0.5)
42
(1.7)
220
(8.7)
331
(13)
313
(12.3)
267
(10.5)
334
(13.1)
268
(10.6)
115
(4.5)
56
(2.2)
Bảng 1: Khí hậu bình quân ở TP.HCM
Nguồn: Đại sứ quán Việt Nam tại London
26 tháng 2 năm 2008.
1.5. DIỆN TÍCH
- Diện tích toàn Thành phố là 2.095,239 km
2
, trong đó nội thành là 140,3km2 còn
lại là ngoại thành. Độ cao trung bình so với mặt nước biển: nội thành là 5m, ngoại
thành là 16m. (nguồn http://www.hochiminhcity.gov.vn/)
- Gồm 24 quận, huyện (Quận 1,2,3,4,5,6,7,8,9,10,11,12, Gò Vấp, Tân Bình, Phú
Nhuận, Bình Thạnh, Thủ Đức, Tân Phú, Bình Tân, Huyện gồm có: Bình Chánh, Hóc
Môn, Củ Chi, Cần Giờ, Nhà Bè).
- Dự kiến đến năm 2020 TP sẽ mở rộng lên diện tích 650 km2, chiếm 31% tổng
diện tích tự nhiên, với tổng dân số 10 triệu người.
1.6. DÂN SỐ
Theo kết quả điều tra dân số ngày 01/04/2009 Thành phố Hồ Chí Minh có dân số
7.123.340 người ( Báo cáo 13 tháng 8, 2009. “Công bố kết quả sơ bộ tổng điều tra
dân số và nhà ở năm 2009”. Trang điện tử chính phủ nước Cộng hòa Xã hội Chủ
nghĩa Việt Nam. Chính phủ Việt Nam. Truy cập 15 tháng 8, 2009) , gồm 1.812.086
hộ dân, bình quân 3,93 người/hộ. Phân theo giới tính: Nam có 3.425.925 người
chiếm 48,1%, nữ có 3.697.415 người chiếm 51,9% . Dân số thành phố tăng nhanh,
trong 10 năm từ 1999-2009 dân số thành phố tăng thêm 2,086.185 người, bính quân
SVTH: Vũ Thị Loan - 10 - MSSV:
08B1080041
Đồ án tốt nghiệp GVHD: PGS.TS Hoàng Hưng
tăng gần 209.000 người/năm, tốc độ tăng 3,53%/năm, chiếm 22% số dân tăng thêm
của cả nước trong vòng 10 năm.
1.7. QUY HOẠCH VÀ KẾT CẤU ĐÔ THỊ
Theo thiết kế đô thị ban đầu của người Pháp vào năm 1860, thành phố Sài Gòn
sẽ là nơi sinh sống cho 500.000 dân. Chính quyền Việt Nam Cộng hòa đã tăng
qui mô của thành phố lên đến 3 triệu dân. Tuy nhiên hiện nay thành phố này có
dân số kể cả số lượng khách vãng lai là 10 triệu người, kết cấu đô thị đã quá tải
(“Giải pháp giao thông TP.HCM: Chỉ là đối phó”. VietnamNet -27 tháng 11
năm 2007). Sài Gòn từng là thành phố của cây xanh với không gian kiến trúc
theo quy hoạch của Pháp trước đây đã thay đổi với việc thu hẹp không gian
xanh để xây dựng nhà cửa, không gian kiến trúc thành phố này trở nên chật
chội với nhiều công trình xây dựng hỗn độn thiếu tính thống nhất (“Không
gian đô thị thành phố Hồ Chí Minh (Phần 2)”. Đài truyền hình Việt Nam
-25 tháng 5 năm 2005). Công tác quy hoạch có nhiều bất cập và yếu kém. Đến
thời điểm đầu năm 2008 mới chỉ có 23% khối lượng công tác quy hoạch 1/2000
được thực hiện. Quy hoạch cho hệ thống công trình ngầm vẫn chưa được thực
hiện xong (“TP. Hồ Chí Minh – Ngán ngẩm với quy hoạch”- Báo Lao Động
8 tháng 1 năm 2008) Công tác xây quy họach và xây dựng đô thị mới vẫn
mang nặng tư duy thời kỳ bao cấp. Trong 10 năm gần đây, khu vực đô thị mới
để lại dấu ấn lớn trong quá trình phát triển thành phố này là khu đô thị mới Phú
Mỹ Hưng do nước ngoài đầu tư xây dựng, không phải là những quận, huyện
được chính quyền địa phương thành lập (“Quy hoạch TP.HCM chưa xứng
tầm”. Thư viện pháp luật -2 tháng 5 năm 2008).
1.8. TÌNH HÌNH PHÁT TRIỂN KINH TẾ
- Thành phố Hồ Chí Minh giữ vai trò đầu tàu kinh tế của cả Việt Nam. Thành
phố chiếm 0,6% diện tích và 7,5% dân số của Việt Nam nhưng chiếm tới 20,2% tổng
sản phẩm, 27,9% giá trị sản xuất công nghiệp và 34,9% dự án nước ngoài. (Số liệu
2005 trên trang của Thành phố). Vào năm 2005, Thành phố Hồ Chí Minh có
4.344.000 lao động, trong đó 139 nghìn người ngoài độ tuổi lao động nhưng vẫn
SVTH: Vũ Thị Loan - 11 - MSSV:
08B1080041
Đồ án tốt nghiệp GVHD: PGS.TS Hoàng Hưng
đang tham gia làm việc (Nguồn lao động trên trang Viện Kinh tế Thành phố Hồ Chí
Minh). Năm 2008, thu nhập bình quân đầu người ở thành phố đạt 2.534 USD/năm,
cao hơn nhiều so với trung bình cả nước, 1024 USD/năm.
- Nền kinh tế của Thành phố Hồ Chí Minh đa dạng về lĩnh vực, từ khai thác mỏ,
thủy sản, nông nghiệp, công nghiệp chế biến, xây dựng đến du lịch, tài chính Cơ
cấu kinh tế của thành phố, khu vực nhà nước chiếm 33,3%, ngoài quốc doanh chiếm
44,6%, phần còn lại là khu vực có vốn đầu tư nước ngoài. Về các ngành kinh tế, dịch
vụ chiếm tỷ trọng cao nhất: 51,1%. Phần còn lại, công nghiệp và xây dựng chiếm
47,7%, nông nghiệp, lâm nghiệp và thủy sản chỉ chiếm 1,2%( Chỉ tiêu tổng hợp giai
đoạn 2001 - 2006, trên trang của Thành phố).
- Tính đến giữa năm 2006, 3 khu chế xuất và 12 khu công nghiệp Thành phố Hồ
Chí Minh đã thu hút được 1.092 dự án đầu tư, trong đó có 452 dự án có vốn đầu tư
nước ngoài với tổng vốn đầu tư hơn 1,9 tỉ USD và 19,5 nghìn tỉ VND (Trang của
Ban quản lý các khu chế xuất và công nghiệp Thành phố Hồ Chí Minh). Thành phố
cũng đứng đầu Việt Nam tổng lượng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài với 2.530 dự án
FDI, tổng vốn 16,6 tỷ USD vào cuối năm 2007 (Hàn Ni, "TPHCM dẫn đầu thu hút
vốn FDI vì biết cách bứt phá". Sài Gòn giải phóng, 3 tháng 11, 2007). Riêng trong
năm 2007, thành phố thu hút hơn 400 dự án với gần 3 tỷ USD ("TPHCM sau 1 năm
gia nhập WTO - Vượt lên chính mình ", Trung tâm thông tin thương mại).
SVTH: Vũ Thị Loan - 12 - MSSV:
08B1080041
Đồ án tốt nghiệp GVHD: PGS.TS Hoàng Hưng
CHƯƠNG 2
TÌNH HÌNH LỘI NGẬP Ở THÀNH PHỐ
HỒ CHÍ MINH
2.1. NGUYÊN NHÂN GÂY LỘI NGẬP Ở TP.HCM
2.1.1. NGUYÊN NHÂN DO TÁC ĐỘNG CỦA TỰ NHIÊN
(NGUYÊN NHÂN KHÁCH QUAN)
2.1.1.1. Do nhiệt độ trái đất tăng và biến đổi khí hậu
- Theo TS. Nguyễn Hữu Ninh, trung tâm Nghiên Cứu, Giáo Dục và Phát Triển
Môi Trường thuộc Liên Hiệp các Hội Khoa Học và Kỹ Thuật Việt Nam. Hiện nay,
nhiệt độ trung bình đã tăng lên tới 0,3 - 0,4 độ C trong mấy chục năm vừa qua và
hiện đang có xu hướng tăng tiếp. Các mô hình nghiên cứu trong thế kỷ 21, nhiệt độ
trung bình của Trái đất có thể tăng từ 1,1 - 6 độ C khả năng xảy ra từ 1,8 - 4 độ C
trong đó tùy theo sự phát thải hiệu ứng nhà kính cắt giảm đến mức độ nào để làm
giảm bớt các khí CO2 và các khí khác gây hiệu ứng nhà kính. Theo báo cáo mới nhất
của Liên hiệp quốc, nguyên nhân của hiện tượng biến đổi khí hậu 90% do con người
gây ra, 10% là do tự nhiên .Nếu như ngay từ lúc này, nhân loại dừng phát thải khí
nhà kính thì nhiệt độ bề mặt Trái Đất vẫn tiếp tục nóng lên, nước biển vẫn tiếp tục
dâng lên trong vòng 50 năm nữa. Nhiệt độ trái đất nóng lên làm cho băng của các
dãy Himalaya và Nam Cực, Bắc Cực và các vùng khác tan chảy. Những núi băng
này tan chảy sẽ làm cho mực nước biển tăng lên.
- Mực nước biển dâng lên từ 28 - 43 cm. Nhưng có thể mực nước biển này còn
cao hơn nữa tùy theo sự phát thải của hiệu ứng nhà kính và tác động của con người
gây ra. Khi mực nước biển dâng thêm 1m, 14 triệu dân ở đồng bằng sông Cửu Long
sẽ bị ảnh hưởng, 40.000 km
2
vùng đồng bằng bị ngập lụt và 1.700 km
2
vùng ven biển
bị chìm. Thành phố Hồ Chí Minh (Cần Giờ Nhà Bè, Quận 2, Quận 8, Quận 7, Thủ
Thiêm, một phần Bình Thạnh, Bình Chánh…) và phần lớn vùng ven biển đồng bằng
sông Cửu Long sẽ bị ngập lụt nghiêm trọng và nếu mực nước biển dâng cao hơn dự
báo 26cm vào năm 2050 sẽ tác động rất lớn tới rừng ngập mặn Cần Giờ và một số
SVTH: Vũ Thị Loan - 13 - MSSV:
08B1080041
Đồ án tốt nghiệp GVHD: PGS.TS Hoàng Hưng
khu vực ở TP.HCM bị nhấn chìm vĩnh viễn -theo ông Jeremy Carew Reid, Giám đốc
Trung tân quốc tế về Quản lý môi trường (ICEM).
- Theo báo cáo của Ngân hàng Thế giới, Việt Nam là một trong 3 nước đang
phát triển (Philipin, Băngladet) chịu ảnh hưởng lớn nhất từ biến đổi khí hậu. Nếu
mực nước biển dâng cao từ 1m ảnh hưởng đến 10,8% dân số, 5% diện tích đất đai và
10% GDP. Nếu mực nước biển dâng lên 5 m thì ảnh hưởng đến 35% dân số, 16%
diện tích đất đai và 36% GDP. Dự báo sẽ có tới 22 triệu người Việt nam bị ảnh
hưởng nặng nề của biến đổi khí hậu.
Hình số 1: Biến đổi khí hậu
2.1.1.2. Do mưa
Theo Trung tâm điều hành chống ngập TP.HCM, mực nước biển đo được ở
Vũng Tàu đã tăng khoảng 0,8cm/năm, còn mực nước các sông, kênh của TPHCM đo
được ở Phú An tăng đến 1,5cm/năm. Những cơn mưa lớn ngày một dày đặc hơn với
vũ lượng trung bình năm sau cao hơn năm trước khoảng 0,8mm. Nếu trước đây cứ 5
SVTH: Vũ Thị Loan - 14 - MSSV:
08B1080041
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét